Ông là thần tượng của mình từ thuở mình 20 tuổi và vẫn là thần tượng không thay đổi cho đến hôm nay. NP
*******************************
PHẠM CÔNG THIỆN – MỘT THI SỸ KỲ TUYỆT THIÊN TÀI
http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2013/04/pham-cong-thien-mot-thi-sy-ky-tuyet.html
Có những con người đến rồi đi qua mặt đất trần gian này như một
cơn sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ tuyệt, tinh
khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo
như vậy.
“Anh đã ra đi từ đó,
từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế
của hạt bụi, anh từ chối chính mình. Khi mọi người ca tụng anh như một thiên
tài, anh vất bỏ thần tượng để đi như một tên lãng tử vô lại…Người lữ hành bước
đi, từng con sóng của đại dương cuốn theo xóa sạch từng dấu chân đi. Lưu lại
trong khách ảo ảnh tiền thân, phảng phất mùi hương và sắc màu quá khứ không
phai nhạt.”* Tuệ Sỹ giới thiệu như thế về Phạm Công Thiện, một tâm hồn hạo
nhiên chi khí, một thi sĩ thượng thừa đã khơi nguồn mạch sáng tạo trào dâng
ngất ngưởng, mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, thiền học,
triết lý, thi ca bát ngát dị thường. Bước đi một mình một bóng, đơn thân độc mã
quá đỗi phong trần gần 50 năm trời nay, say gót mộng chuếnh choáng lang bạt kỳ
hồ, lang thang lêu lổng suốt muôn chiều phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương. Lướt
cánh đại bàng, tung hoành ngang dọc khắp năm châu bốn biển, thênh thang giữa
thiên địa hoàn cầu.
Vào một chiều tháng 6,
bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu
Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng ngút ngàn chảy xuống dọc
ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam. Thi sĩ
lớn lên từ đó, suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng rong chơi, tha hồ tắm sông lội
nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng xa xôi.
Rồi bất thình lình,
đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một thần
đồng biết nhiều thứ tiếng, một thiên tài lỗi lạc : Năm 1957, mới 16 tuổi đã
xuất bản Tự điển Anh ngữ tinh âm, 19, 20 tuổi viết Ý thức mới trong văn nghệ và
triết học, 23 tuổi, viết Tiểu luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26, 27 tuổi, viết Hố thẳm
tư tưởng, Im lặng hố thẳm, Ý thức bùng vỡ, Bay đi những cơn mưa phùn, Trời
tháng tư, Ngày sinh của rắn, Mặt trời không bao giờ có thực, Nikos Kazantzaki,
Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật những tác giả vĩ đại
Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger… làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sĩ trí
thức thời bấy giờ.
Thuở ấy, năm 1967, khi
Phạm Công Thiện làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, đúng lúc
26 tuổi thì Tuệ Sỹ, Bùi Giáng cũng có mặt ở đó thường xuyên, là những cây bút
cốt cán, nền móng trong tạp chí Tư Tưởng, tiếng nói của Viện Đại học Vạn Hạnh.
Trước đó, nhà thơ cũng
đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn
thủy qua Paris, London, New York, Washington rồi, từng diện kiến, sống gần gũi
với những nhân vật kiệt xuất lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris,
Henry Miller ở Los Angles.
Đang là thần tượng của
đám sinh viên các đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công
Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn
phương hành, làm cuộc ra đi theo quẻ Lữ trong Kinh Dịch, lênh đênh qua tận bên
kia bờ đại dương tuyệt mù tăm tích vào năm 29 tuổi, tức năm 1970. Đó cũng là
năm cuộc chiến tranh Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất.
trên khắp hai miền Nam Bắc tang thương.
Cất cánh phụng hoàng,
thi sĩ bay vút đi xuyên qua gầm trời giông tố bão loạn, đang đắm chìm giữa dòng
sử lịch hỗn mang, tang tóc cuồng phong gầm thét dữ dằn, tan hoang tàn bạo, xô
đổ xuống mịt mù âm u hỗn độn, vây khổn đầy bóng tối vô minh trong đêm dài điêu
linh, trầm thống, đoạn trường.
Trước ngày khởi hành,
ngồi trên đồi cao chùa Hải Đức Nha Trang, thi nhân lắng hồn cô đơn, tịch mịch
để nghe vọng về bao nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong rưng rưng nhức
nhối :
Hồi chuông chùa vọng
luân hồi
Chim chiền chiện hót
ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô
thường
Đồi cao bạt gió hai
đường âm u
Âm u hai đường, đông
tây đôi ngã thê lương. Còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh chim ngàn cứ tung
bay cho hết bầu trời tính phận bao la của mình. “Bổn phận của mi là lên đường
đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Văn hào Nikos
Kazantzakis đã nói như vậy, cũng như triết gia vĩ đại Heidegger làm những câu
thơ như âm thầm khích lệ thi sĩ lên đường :
“Bước tới và chịu đựng
Sự thất bại và câu hỏi
Trung thành với lối đi
duy nhất của mi.”
Thi sĩ Phạm Công Thiện
đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí, im lặng thực hiện
một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc hành ca trên lộ
trình hướng về hố thẳm uyên mặc, uyên nguyên. Cuộc lữ dữ dội bi tráng, mở ra
những phương trời hoằng viễn như Rimbaud, Hoelderlin, như Nietzsche, Henry
Miller, những đồng thanh tương ứng với thi nhân nên luôn luôn xuất thần, ngất
trời túy lúy, phóng cuồng phiêu đãng hoan say. Đó là những cuộc đi vô định, vô
sở trú, chất ngất trên tuyệt đỉnh núi cao và hun hút tận nguồn sâu hố thẳm tâm
linh, vừa bừng bừng thần khí rực ngời lửa tim hồn cháy, vừa ầm ầm cuồng nộ,
trào tuôn lai láng như sóng vỗ đại dương. Cháy và chảy, cháy và chảy mãi trong
hồn, như một lần đặc biệt, nhà thơ đã từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên
Việt Nam : “Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một thứ lửa thiêng như tôi,
cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó chảy trôi như tôi, cùng sống như
tôi đang sống : Cháy và chảy, cháy và chảy không ngừng…”**
Hừng hực ngọn lửa
thiêng suốt ngày đêm bừng cháy trong trái tim nên chàng thi sĩ đã hào hứng lên
đường ra đi từ dạo đó, từ thuở nào vô thường dâu bể loạn mù xa,
giã từ hồng nhan, bái
biệt nàng thơ huyền mộng cũ trong ngậm ngùi chia phôi :
Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng
điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng
bể dâu
Sắt son tình cũ phượng
cầu túy hương
Có còn chi nữa mà
thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy
nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa
trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch
trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh
cô liêu
Lửa bay thành ngọn
hồng điều mật ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng
triêu tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập
hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch
hào
Một luồng sáng rưc
chiếu vào trái tim
Đứng trên tuyệt đỉnh
cô liêu, một chiều hoang vu nọ, nhà thơ bỗng nghe văng vẳng những lời ẩn ngữ
mật ngôn huyền bí và chợt thấy thấp thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ miền tuyết
trắng Tây Tạng hoang sơ. Biết mình là hành giả Mật tông trong các dãy hang động
trên tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn, nên trái tim Bát nhã ứng hiện những nàng tiên
huyền diệu, dạo khúc cung đàn mười tám tiếng lòng Không Định rung ngân, khiến
cho thi sĩ chỉ còn biết đọc thần chú lim dim :
Năm nàng thiên nữ tôn
nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng
điềm tán không
Án đa la tịch mịch
hồng
Mười phương xuất hiện
những đồng sinh thiên
Bát nhã là gái thiên
tiên
Khoan thai cởi áo mây
hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ
đào
Thập bát Không Định
tiêu dao tiếng đàn
Trời mưa chim ngủ trên
ngàn
Sắc son tình cũ nước
tràn sang sông
Tiếng đàn tiêu dao vô
thanh mà vang ngân bất tận lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung hồn rúng chuyển
gió sương ngàn khắp vùng thung lũng sơn khê. Ơi chao ! Một đóa hồng hoa vut trổ
im lìm như những nàng tiên nữ giáng trần sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân
xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã :
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng
tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn
khê
Một bông hồng nở bốn
bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào
tim
Âm nhập dương khởi lim
dim xuất thần
Năm nàng tiên ở đây là
ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ, năm người yêu dấu nhất trong cuộc sống
thực tế thường nhật của thi nhân. Xuất thần nhập cốt, hưng phấn hân hoan rạt
rào, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu mà Phạm Công Thiện thỉnh
thoảng rơi vào một cách phiêu diêu tuyệt cùng, như một thời sống bồng tênh trên
núi rừng phố hoa Đà Lạt, một chiều hiu hắt nọ, chàng choáng váng, sững sờ khi bắt
gặp Thiền tông giữa cơn mưa gió bão bùng : “Tôi quỳ xuống lạy lung tung, tôi
lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn, lạy vách
tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung sướng, yêu
đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi kịch, cảm tạ
hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất từ mấy ngàn
năm nay.”***
Hay một lần nơi
thành phố Garden Grove ở California, trong căn phòng trống trải cô tịch vô vi,
thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp
giới vô ngần : “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp người, nó không khác người
khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái đất, nó là tất cả những
định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con bướm, con quạ, trái cam,
chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là luồng ánh sáng và đêm
tối…Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ,
mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…Nó là sự trống không mênh
mông của mười tám cái không tràn trề của Trí tuệ Bát nhã sang sông…Nó là sức
mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất
của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết
lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối hậu của
chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của một đóa
hoa hồng tơi tả…”****
Rồi một lần kia, nhà
thơ cô đơn, tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời
Ý Đại Lợi xa xăm bỗng nhập thần mộng thấy đại thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều
hiện về thấp thoáng vi vu :
Năm tàn nằm mớ Nguyễn
Du
Kiều trôi đâu mất la
phù dặm khơi
Cuốc kêu bảng lảng
tháp hời
Nhắc tên người cũ rã
rời cuối năm
Trầm tư bên một góc
quán cà phê ở Glebe, trên vùng đồi cao Eanwood, nhìn xuống dòng sông xanh, gần
thành phố Sydney ở tận bên kia bờ Úc Châu, thi nhân chợt nghe ra tiếng ngựa hí,
tiếng đàn vô thanh của Mã Minh và thấy Long Thọ lang thang dưới ánh trăng thái
cổ ảo huyền :
Con ngựa ô lồng lộn Mã
Minh gãy đàn
Long Thọ thở dài nhật
nguyệt lang thang
Rồi lại một chiều
phiêu bồng lãng bạt, rong rêu bên dòng sông Seine bồng bềnh, rực ngời hoa nắng
óng ả mới lạ ở thành phố hoa lệ Paris, thi sĩ bỗng thấy Van Gogh nhập cốt ứng
hiện huyền hòa :
Úm tô rô Van Gogh hiện
ra
Úm ba la u linh ma ha
Đất nứt nở ra bầy quạ
trắng
Hồn thiêng Van Gogh
nhập vào ta
Van Gogh là một họa sĩ
dị thường, có một câu nói bất hủ : “Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng
vậy, rất có thể mi bỏ qua không cần Thượng đế, nhưng mi, kẻ khổ đau, mi không
thể bỏ qua, không cần tới một điều cao viễn hơn mi, chính là đời mi : Quyền
năng sáng tạo.” Vâng, sáng tạo là một nghệ thuật tối thượng, là bước đi tuyệt
cùng tự giải phóng, tự giải thoát bản thân khỏi nhà tù do chính mình tự tạo cho
mình, như nhà văn xuất chúng Henry Miller cũng đã từng tuyên bố : “Kẻ sáng tạo
kêu gọi con người trực nhận rằng, tất cả mọi tự do có sẵn trong bản thân rồi.
Rằng con người không cần phải bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới ( vì đó
không phải là vấn đề của hắn ) mà chỉ nên lo giải quyết vấn đề riêng tư của
chính riêng mình, tức là vấn đề giải phóng, giải thoát, chứ không phải vấn đề
nào khác cả.”***
Nhà thơ tài hoa Phạm
Công Thiện của chúng ta, cũng trên tinh thần giải phóng ấy, vẫn quảy túi thơ
bầu rượu, xuôi ngược bước đi nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô
lường. Hướng về uyên nguyên khơi mở, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên
thu, tái tạo từng điệu thở, từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp thâm căn cố đế để
thể nhập Tánh Không, xô cửa huyền vi mà bước vào Tâm giới, nơi tuyệt cùng của
vạn vật Nhất như. Bước tự do tự tại, thênh thang giải thoát mọi dính mắc, buộc
ràng, chỉ còn sáng tạo và sáng tạo miên man, dốc hết tinh hoa, tinh túy để tựu
thành những tác phẩm độc đáo vô song :
Từ Đi cho hết một đêm
hoang vu trên mặt đất đến Khơi mạch nguồn thơ thi sĩ Seamus Heaney, từ Một đêm
siêu hình với Hàn Mặc Tử đến Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, từ Đối mặt với một
ngàn năm cô đơn của Nietzsche đến Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất, từ Nét đẹp
tinh túy trong sáng của đạo lý Phật giáo đến Làm thế nào để trở thành một bậc
Bồ tát sáng rực khắp bốn phương, từ Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng
đến Trên tất cả đỉnh cao là lặng im…là những bước nhảy thượng đẳng, ngoạn mục,
hùng tráng, phi thường, vượt qua sự chuyển hóa toàn diện của tâm thức đến độ vô
sư tự ngộ, bùng vỡ ra một điều chi như thị đang là, ngay ở đây thôi :
Những gì không vói tới
Thì có sẵn đó rồi
Bao nhiêu danh vọng
hời
Vài ba cụm bèo trôi
Ba mươi năm nằm dài
Một hôm đứng phắt dậy
Bất nhị xòe tầm tay
Bất ngờ tôi sụp lạy
Từ trống trải nhận
thấy
Tự trống trải lắng
nghe
Tịch diệt liền tại đây
Xuân dậy giữa trưa hè
Xuân là Nguyên xuân,
Tâm xuân, mùa xuân miên viễn trong lòng người, thi sĩ đã thấy và nghe được như
một phép nhiệm mầu làm biến tan mọi niềm đau sầu khổ :
Hôm nay là hôm nào
Thôi đừng hỏi tại sao
Phép lạ đập vào cửa
Bông súng nở trắng
phau
Ngồi im giữa vòng tròn
Thở nhẹ như chim non
Mộng thân trùm Pháp
giới
Bông quỳnh vừa nở trọn
Lắng vào trong cái
nghe
Rót vào lòng thật khẽ
Lọt vào trong lặng lẽ
Động tịnh đều dứt nhẹ
Những bài thơ ngắn
gọn, tuy đơn sơ giản dị nhưng đi thẳng vào lòng người một cách tự nhiên, thể
hiện cốt cách đặc thù riêng biệt, hàm dung ý thiền “một là tất cả. tất cả là
một” của tinh thần Hoa nghiêm, nói như Phạm Công Thiện : “Nếu chúng ta xoay
chuyển cái nhìn của chúng ta vào trái tim vũ trụ theo nhịp thở kinh Hoa nghiêm
thì tất cả mọi sự đều dung thông, dung nhiếp, viên dung tự tại vô ngại, thời
gian là không gian, một thời gian là tất cả không gian, một không gian là tất
cả không gian, tất cả thời gian là một không gian, tất cả không gian là một
thời gian.”*****
Khi tiềm ẩn nguyên
khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ cự phách thường kiệm lời, ít nói mà linh
hoạt, tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như một trò chơi.
Còn kẻ thi sĩ xuất chúng, sáng tạo vô vàn cảnh giới thi ca quá mộng thì ít nhất
cũng sờ đụng tới hố thẳm và đỉnh cao tâm linh của chính mình.
Đỉnh cao và hố thẳm
tâm linh ấy, Phạm Công Thiện đã từng va chạm, giáp mặt trong một bình sinh hy
hữu nào đó, cho nên cả trời thơ đất mộng dạt dào bao nhựa sống thâm trầm nhập
vào trong từng điệu thở tinh khôi :
Lùa nhẹ vào một mối
Đập mạnh một nhát thôi
Tất cả đều bày phơi
Trí tuệ sáng rực ngời
Muốn có được ánh sáng
quang minh trí tuệ rực ngời đó thì chẳng phải chạy tìm đâu xa mà chính ngay nơi
tận đáy lòng mình, chính nơi mình đang cư ngụ, lưu trú, ngay nơi những nghịch
cảnh, thử thách mà mình phải giáp mặt ngày đêm một cách anh dũng, không nao
núng, như nhà thơ từng nhắc nhở : “Chúng ta chỉ thành Phật được, khi chúng ta
là con người ở giữa thị tứ, không có cảnh Bồng lai thiên thai địa đàng nào là
thuận cảnh để ta giải thoát được, chinh tất cả Nghịch cảnh của nơi ta sinh sống
mới là nơi ta tự chuyển hóa tâm thức để nhập vào Tự chứng Thánh trí.”*****
Thánh trí đó là trí tuệ, tuệ giác, là cái bản tâm nguyên sơ thanh tịnh của mình
đấy thôi. Khi thấy rõ tận tường được điều đó thì xem mọi sự ở đời như sống
chết, đến đi, hơn thua, đúng sai, phải trái, giàu nghèo, thành công, thất bại…
đều là nhân duyên giả hợp, chẳng hề sợ hãi, lo âu chuyện còn hay mất :
Thất bại giữa đời này
Chết sáng ngời trên
cao
Bông tàn phai cõi đất
Mọc lại giữa trăng sao
Nhảy thẳng vào sự việc
Chẳng có gì đáng tiếc
Sự việc lớn lao nhất
Là hiện tiền tịch diệt
Thực tại hiện tiền là
ngay đây, bây giờ, ngay trong mỗi phút giây là chứa đầy thiên thu vĩnh cửu,
ngay trong từng hơi thở ra vào là đủ cả nghìn năm :
Bôn ba ngoài vạn dặm
Cũng chỉ một trăng rằm
Bao nhiêu là hố thẳm
Xoáy về nốt ruồi đậm
Hố thẳm là ẩn ngữ chỉ
cho tư tưởng của chúng ta. Chỉ cần một chút tơ tưởng móng lên thôi là cả ba
nghìn thế giới, sơn hà đại địa hay tiên nữ, thục nữ mười phương liền hiển lộ,
bừng dậy huy hoàng, rõ ràng hiện ngay trước mắt tức thì :
Chỉ cần một ý tưởng
Khắp vũ trụ mười
phương
Sáng bừng lên vô lượng
Thiên tiên hiện đầu
giường
Phải chăng đó là cái
thấy tuệ giác siêu việt của một tâm hồn bao la thông suốt lẽ sâu xa của trùng
trùng duyên khởi Hoa nghiêm pháp giới diệu kỳ :
Mỗi bước chân ra đi
Triệu vũ trụ thiên di
Mỗi chỗ tôi ngồi lại
Sáng bừng lên diệu lý
Chân lý vi diệu đó,
thi nhân bỗng phát hiện chẳng ở đâu xa mà ngay tại đây và bây giờ, ngay giữa
phù du cát bụi giữa vui buồn sướng khổ trong cõi lòng huyền diệu của thức tâm :
Trăm năm đời hờ hững
Đêm ngày buồn lơ lửng
Linh địa là tại đây
Nơi chỗ tôi đang đứng
Linh địa là mặt đất
thiêng liêng này, nơi thi sĩ đang sống từng phút từng giây đầy trọn vẹn. Sống
từ đồng bằng sông Cửu Long đến cao nguyên sương mù Đà Lạt, từ Mỹ Tho, Cần Thơ,
Sài Gòn, Nha Trang đến Paris, London, Rome, Monterey Park, Long Beach, Los
Angeles, Houston, Washington… ngút ngàn viễn xứ xa xôi :
Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế
thôi
Trăm năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi
Hàng triệu tỷ năm trôi
qua và giờ đây ngưng đọng trong cái đang là, nơi người em thi ca từ vô lượng
kiếp trở về đang mỉm cười nguyên sơ rạng ngời mới lạ :
Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm qua
Cuộc trùng phùng kỳ
ngộ thật vô cùng thú vị, tuyệt hảo tân kỳ như một kẻ đốn ngộ vô ngôn vì thấy
toàn thể vũ trụ là chốn đạo tràng đầy đủ chư Phật, Bồ tát, Thần linh đều viên
dung cùng một ngọn ngành thanh tịnh :
Tất cả là đạo tràng
thần linh
Ta ngồi tham ngưỡng
cội vô hình
Thênh thang phù thế
làm chim ó
Bay lượn tháng ngày
cõi lặng thinh
Bay lượn giữa phong
quang trời đất, nhật nguyệt hay thả trôi trên dòng sông Mật tông thấm đẫm tình
Mẹ Đại bi, Đại trí Tãra xanh biếc huyền mộng chan hòa. Cả vũ trụ mênh mông là
một tu viện rồi thì về chùa hay xa chùa cũng trong vòng tay bao dung mở rộng :
Tãra mười tiếng đại
không
Ảo thân nằm giữa dòng
sông Mật thừa
Về chùa một dúm muối
dưa
Xa chùa cũng thế :
Hứng mưa mỉm cười
Hầu như suốt cuộc đời
Phạm Công Thiện thường gắn bó, thân mật, cận kề với những ngôi chùa ở quê hương
cũng như các ngôi chùa nằm dọc ven đường lang bạt
trên toàn thế giới,
chàng ở chùa nhiều hơn là ở nhà. Mặc dù, mới buổi sáng giảng kinh Kim cang thao
thao bất tuyệt trên thiền đường, rồi buổi chiều thõng tay vào chợ uống rượu
ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, giang hồ tứ chiếng đó đây mà phong thái
vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao. Mỉm cười buông bỏ nhẹ nhàng để bước đi trầm
hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như “chim hải hồ bay trắng tháng ngày” bay khắp
thiên thanh vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa rêu phong tịch mịch, ngồi
nhập định du hý tam muội làm thơ kính tặng cõi thinh không lồng lộng :
Mồng tơi mây ngủ hiên
chùa
Dâm bụt rực đỏ hai mùa
gặp nhau
Hơi rừng thơm nức
chiêm bao
Đêm thâu nín thở ngó
vào bài thơ
Toàn thể cuộc đời là
bài thơ, sống chết là bài thơ, có không là bài thơ, mộng thực là bài thơ, buồn
vui, sướng khổ là bài thơ, hơn thua, được mất là bài thơ, thành công, thất bại
là bài thơ, gặp gỡ, ly biệt là bài thơ, phiền não, an lạc là bài thơ, khổ đau,
hạnh phúc là bài thơ, chiêm bao mộng mị là bài thơ hay Vô thượng chánh đẳng,
chánh giác cũng đều là thơ thơ hết thảy, thơ ở trong thơ :
Tượng Phật ở bàn thờ
Dọn dẹp để trống trơ
Tôi vẫn lạy chỗ trống
Chỗ trống thành bài
thơ
Chính cuộc đời của
Phạm Công Thiện là một bài thơ quá tuyệt vời bát ngát, quá tuyệt mỹ lý thú, quá
tràn trề mê say, ngợp đầy hào sảng rạt rào vô hạn, đã khơi dậy nguồn cảm hứng
dồi dào, thắp lên ngọn lửa thiêng huy hoàng sáng tạo, bừng cháy bất tận giữa
lòng nhân thế tuyệt trần :
Hứng lúc nào cũng đến
Giờ nào cũng giờ hên
Ngồi thẳng lưng mà
viết
Vạn tơ tưởng bồng bềnh
Viết là sống. Sống một
lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như Krishnamurti hay sống Alexis Zorba Con
người chịu chơi như Nikos Kazantzakis hoặc sống Chơi giữa mùa trăng như Hàn Mặc
Tử : “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn,
giận hờn đến gần đứt sự sống.”
Thể điệu sống ấy, thật
giống hệt với thi sĩ Phạm Công Thiện xiết bao !
Thật vậy, chẳng những
giống như Hàn Mặc Tử về phong cách nhập cuộc tha thiết, kiệt tận bình sinh, dốc
hết toàn thể xương xảu máu me vào ly rượu tình yêu nồng say óng ả mà Phạm Công
Thiện còn tương ứng, tương tợ với nhà thơ lãng tử Rimbaud từng trải qua Một mùa
địa ngục bi tráng, bi hùng, với đại thi hào Walt Whitman, chỉ một Lá cỏ cũng đủ
chứa đựng cả vô tận đất trời, với Suzuki Thiền luận, với Padmasambhava Tổ sư
Mật tông Tây Tạng, với Milarepa Con người
siêu việt, với Long
Thọ Trung quán luận, với Heidegger Về thể tính của Chân lý, với Nietzsche,
Zarathustra đã nói như thế trên ngõ về vĩnh cửu, với thi hào Hoelderlin lên
đường Quy hồi cố hương, với Apollinaire, một thi nhân trầm lặng mặn nồng, sống
trọn vẹn hết mình với tình yêu và nhất là với Henry Miller, một tâm hồn thượng
đẳng mà Phạm Công Thiện kính phục, ca tụng hết lòng : “Henry Miller là một
trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lưc mãnh liệt nhất của
lòng Đại bi trong ý thức và vô thức của con người trên mặt đất.” Lòng Đại bi là
tình thương, tình yêu vô lượng vô biên có từ buổi sơ khai, nguyên thủy mà Henry
Miller đã thấu thị được hương vị của tình yêu tuyệt vời, diễm kiều, vi diệu đó
và vượt qua, vượt qua bên kia bờ Nhất nguyên tuyệt bích.
Tìnht thương, tình yêu
dịu dàng phát sinh, khởi sự từ những thục nữ, thuyền quyên, từ nàng thơ, tiên
nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu điệu ngát hồng nhan :
Càng xa càng mông lung
Tới gần vẫn lạ lùng
Nhắm mắt sao lạ quá
Mở ra ồ không cùng
Linh hồn con gái, phải
chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sĩ mơ màng mộng mị
trong từng trận trận chiêm bao ảo dị dập dìu :
Một người nằm thở
quạnh hiu
Mơ mòng thiếu nữ cô
liêu giáng trần
Gió khuya đập cửa bất
thần
Giựt mình thức dậy mấy
lần chiêm bao
Có nàng tiên dáng cao
cao
Nước da mòng mọng hao
hao bông hường
Cái đêm lành lạnh
chiếu giường
Gió lùa hương lạ bên
đường tạt qua
Đêm qua thương nhớ
người ta
Tối nay tơ tưởng thiên
hà bơ vơ
Tháng ngày tôi nhớ
bâng quơ
Những nàng con gái bao
giờ gặp đâu
Gặp nhau bao giờ chưa
hỡi những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những hương đồng cỏ nội
khắp lâm tuyền, biên ải ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn muôn nơi, hỡi Quế
Hương, Thanh Hoài, Phong Sương Trần Thi Loan, Hoàng Thu Uyên… diễm tuyệt một
thuở nào quyến rũ du dương tận xứ miền Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói Đà
Lạt quá mang mang :
Bầy chim bạc má gọi
đàn
Thương nhau gặp lại
trên ngàn đỉnh cao
Trở về Đà Lạt ngó đào
Ghé thăm Liên Chiểu
thuở nào yêu nhau
Yêu nhau cảm động
dường nào, xao xuyến, xốn xang, rộn ràng trong tiếng hát liêu
trai của nàng ca sĩ
yếu gầy mà thi nhân hơn một lần say đắm mộng lao đao :
Cô đơn về trắng sương
rừng
Anh nghe tiếng hát
hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục
môi em
Mưa run lặng lẽ bên
thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống
đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi
chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình
yêu
Anh về phố gục những
chiều hư vô
Đời đi trên những nấm
mồ
Đau tim em hát cơ hồ
khăn tang
Phố chiều thả bước
lang thang
Như con sông nhỏ mơ
màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời
anh
Yêu em câm lặng khô
cành thu đông
Lời em như một dòng
sông
Đôi bờ anh đứng giữa
lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy
triền miên
Một con chim dại lạc
miền hoang lương
Về đâu thương những
con đường
Lê thê phố cũ nghe
buồn hè xưa
Hè xưa phố cũ tuy buồn
mà vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu mang lãng đãng. Chàng thi
sĩ đa tình đa cảm, trót vương mang nàng thơ gầy guộc có đôi mắt sầu mộng u
huyền trên cao nguyên nghi ngút sương mù bay trắng cả rừng thông, suốt mười năm
trời đằng đẵng mộng mơ, nhớ thương tưởng vọng trong da diết ngậm ngùi :
Mười năm qua gió thổi
đồi tây
Tôi long đong theo
bóng chim gầy
Một sớm em về theo
giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả
rừng cây
Gió thổi đồi tây hay
đồi đông
Hiu hắt quê hương bến
cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn
bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây
trổ bông
Gió thổi đồi thu qua
đồi thông
Mưa hạ ly hương nước
ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà
xơ xác
Một sớm bông hồng nở
cửa đông
Phải chăng đó là cõi
mộng hư ảo tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi Nôm Đà Lạt hay dưới vùng biển
Vạn Giã Nha Trang. Ơi nhớ một chiều mưa thấp thoáng, chàng
thi sĩ rời bãi biển
cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành đi về leo lên sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực
thấy cây khế bừng rộ hoa tim tím bên triền dốc đá hoang thưa :
Mưa chiều thứ bảy tôi
về muộn
Cây khế đồi cao trổ
hết bông
Hoa nở rồi tàn cũng
như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy vẫn còn phảng phất những làn
hương tóc mị kỳ cứ ám ảnh chập chùng mãi lung linh :
Tình bay lên nóng
trăng sao
Gió lùa thơm tóc cô
nào năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa
trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch bỏ
đời biệt tăm
Thầm cảm nhận thấm
thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự
nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào tuyệt bích tình thương. Tình thương
yêu tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng
chim ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương
khói vô vi trở thành Bồ đề tâm thâm viễn miên trường :
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy cúng dường
Lôi bồ đề tâm dậy
Chấn động khắp mười
phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô lượng
Lôi bồ đề tâm dậy
Địa động cả mười
phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm chẻ đứt kim cương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy thiên
hương
Bồ đề tâm tăng trưởng
Bông quỳnh nở bất
thường
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vách tường
Bồ đề tâm quy ngưỡng
Bông trang trổ đầu
đường
Khi thi nhân quỳ
xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là lúc Bồ đề tâm
bừng dậy tỏa chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Bồ đề tâm chính là Đại
bi tâm, có thể làm sụp đổ tất cả mọi ác pháp. Phạm Công Thiện từ bao giờ đến
bây giờ vẫn thường xuyên miên mật hít thở trong bầu khí hậu phong nhiêu ấy, hơi
thở biến thành hành động sụp lạy là đã nhập vào vô ngã, vắng lặng cái tôi, vắng
lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham chấp, chỉ còn đương xứ
tức chân, hiện bày ngay cái đang là.
Đang là thì không từ
đâu đến cũng chẳng đi về đâu, dù cuộc lữ bắt đầu khởi sự từ vô lượng kiếp rồi,
dù có đi vòng quanh hết quả địa cầu này thì cũng đẻ thấy lại cái tâm hồn mình,
như Henry Miller nói : “Vì chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại thôi, đó là đi vào
bên trong mình và đi vào trong lòng mình thì thời gian, không gian, ngay
đến hành động cũng không quan trọng gì cả.”**** Thì ra là vậy, thật đơn giản mà
độc đáo vô cùng.
Cùng nòi giống, cùng
dòng máu Henry Miller nên Phạm Công Thiện cũng nhiệt liệt, hiên ngang theo dõi
cuộc phiêu lưu thám hiểm vào nội tâm thầm kín, để khai phá ra những bí mật bên
trong thế giới tâm linh sâu thẳm của chính mình. Cuộc lữ tư duy khủng khiếp từ
khi thi sĩ tự nguyện làm lạc đà gánh nặng, băng qua những sa mạc cát trắng khô
hạn, cháy bỏng vết hằn cay đắng, thê lương, vượt qua ngàn cơn bão lốc khốc liệt,
kinh hoàng của nỗi đời dâu bể tan hoang cũng như từng say đắm, say sưa chén
rượu hồng nhan, túy lúy càn khôn bổi hổi, rồi dấn thân làm sư tử oai phong lẫm
liệt, đi đứng một mình, không bè nhóm, không đảng phái, không ý thức hệ, chỉ
gầm rống vang động, làm rung chuyển khắp sông hồ dữ dội, hùng tráng, uy nghi,
khí phách giữa tồn sinh bức bách, xuống biển lên đồi.
Rồi bất ngờ đến kỳ lạ,
sư tử biến thành thằng bé trẻ dại hài nhi với nụ cười tươi tắn niềm hân hoan
thơ ngây, thấy gì cũng rực ngời mới lạ, bằng con mắt trong veo, trong trẻo
trinh nguyên xanh biếc trời thơ đất mộng không tên.
Trên cung bậc ngân
vang ngút ngàn sáng tạo, Phạm Công Thiện cùng tương ứng với triết gia Nietzsche
về ba hóa thân : Lạc đà,. sư tử và hài nhi. Trước hết tinh thần trở thành lạc đà,
chuyên chở gánh nặng văn hóa, truyền thống… tiêu biểu những giá trị lỗi thời
xưa cũ. Sư tử là chúa tể rừng xanh, tượng trưng cho ý chí, trí tuệ siêu việt,
mạnh mẽ phá hủy tất cả những triết thuyết độc thần, hư vô, duy vật lỗi thời đó,
làm sụp đổ hết thảy mọi thần tượng do con người sợ hãi dựng lên và cuối cùng là
hài nhi hồn nhiên, là biểu tượng cho sự bắt đầu, khởi nguyên hoàn toàn mới mẻ,
là một tiếng cười rỗng rang, một tiếng ừ chấp nhận thiêng liêng.
Hài nhi xem mọi sự như
trò chơi, trò đùa vui vẻ, chẳng có chi phải trầm trọng, nặng nề, chẳng có gì
phải van xin, tôn thờ, sợ hãi. Hài nhi chỉ biết yêu thương múa
hát, hân hoan sáng tạo
và sáng tạo thênh thang.
Thênh thang ca hát như
Trang Tử dạo khúc Tiêu dao du bên bờ sông Dương Tử hay như Milarepa hát ca
những lời thơ siêu thoát trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn lạnh rờn tuyết trắng,
hoặc như Beethoven Hòa tấu khúc thứ 9 bất hủ và Phạm Công Thiện cười vang lên
như tiếng gầm sư tử trầm hùng tự tại thong dong :
Anh vụt cười to động
đóa hồng
Dịu dàng em rắc giữa
hương nồng
Anh ngồi chỗm dậy như
sư tử
Vồ chụp bướm ngàn lúc
rạng đông
Khi sư tử mà đùa rỡn,
nhảy múa với chim ngàn hoa bướm là lúc mọi sự đã trở thành một trò chơi của hài
nhi hý lộng, rất mực thuần nhiên thoải mái, thanh thản nhẹ nhàng như thi sĩ tâm
sự khơi vơi về thái độ ứng xử giữa cuộc luân lưu sinh tồn linh động : “Sống, ăn
ở đời một cách khiêm tốn, tầm thường, nhỏ thấp, cung cách, cử chỉ lặng lẽ từ
tốn, nhún nhường, không tìm cách tỏ ra rằng mình là quan trọng đối với con mắt
thế gian, nhưng đằng sau bề ngoài tầm thường đó thì hãy để tâm thức mình bay
vút, vượt lên trên tất cả quyền lục và danh vọng thế gian…
Chấp nhận tất cả những
gì xảy đến đời mình với sự dửng dưng bình thản, mặc kệ giàu hay nghèo, mặc kệ
khen hay chê, không thị phi phân biệt cái này với cái kia như đức hạnh và đồi
bại, vinh quang và nhục nhã, tốt và xấu. Không đau đớn khổ sở và cũng không ân
hận những gì đã qua, không sung sướng hớn hở và cũng không hãnh diện về những
gì mình đã thực hiện thành tựu.
Ngó nhìn những quan
điểm xung đột và những phát hiện sinh hoạt đa dạng của chúng sinh với lòng bình
thản, khinh an và tâm thức siêu thoát. Phải hiểu rằng đời là thế và là thể điệu
tác động không thể tránh được của mỗi một sinh thể. Hiểu như thế thì hãy luôn
tỉnh thức, thanh thản trầm lặng. Ngó nhìn nhẹ nhàng xuống cuộc đời như một
người đứng trên tột đỉnh núi cao nhất, nhìn ngó xuống những thung lũng và những
ngọn núi nhỏ thấp trải ra dưới chân mình.”*****
Giữa muôn trùng cuộc
lữ, trên con đường mây trắng bềnh bồng, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng
vẳng những cung đàn lã lướt dưới gót chân của chàng thi sĩ dị thường. Bước đăng
trình vạn lý du, có đôi lúc cũng dừng gót chân lãng tử lại nghỉ ngơi một vài
quán trọ dọc đường như giảng dạy triết lý, văn chương ở đại học Toulouse, nước
Pháp hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở các đại học, thiền viện trên khắp
miền viễn xứ California và Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Nhật Bản
Nohira Munehiro khi làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ, lấy đề tài về triết gia
Phạm Công Thiện, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa Anh Đào đều tôn
vinh, ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam.
Từ năm 1966, mới 25
tuổi, Phạm Công Thiện đã nói về Long Thọ : “Theo Trung quán luận, thì sự nô lệ,
sự phiền muộn, đau khổ, chấp trước…chỉ là vọng tưởng.
Chúng ta bám chặt vào
sự vật, vào ý tưởng, vào con người, vào hoàn cảnh, vào nguyên nhân, vào kết
quả, vào mục đích, vào cứu cánh, vào phương tiện, vào sống
và chết : Chỉ vì vọng
tưởng tạo ra những đặc tính và những hình ảnh mà chúng ta tưởng rằng có thực và
bất di dịch…
Con người giải thoát làm việc
thiện, cứu đời, độ thế, không phải để đạt đến kết quả nào ở đời này hay đời
sau. Hành động của con người giải thoát là hành động không mục đích và không lý
do. Lý tưởng Bồ tát thể hiện trong Đại bi là lòng thương không mục đích, vì còn
mục đích là còn trói buộc vào nhân và quả. Trói buộc là nô
lệ, là chấp nhân hoặc
chấp quả, chấp ngã hoặc chấp pháp, chấp hữu hoặc chấp không. Hố thẳm chính là
phá chấp và phá chấp triệt để…”******
Tinh thần phá chấp
triệt để ấy, thể hiện nhất quán qua toàn bộ tác phẩm Phạm Công Thiện từ thuở
xưa cho đến bữa nay, nên các học giả Nhật Bản sánh Phạm Công Thiện với Long Thọ
cũng là tương xứng, xác đáng. Đại văn hào Mỹ Henry Miller thì cho rằng, Phạm
Công Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sĩ tiên tri thấu thị của nước Pháp.
Nhà thơ Giang Trần, nhà thơ Phan Tấn Hải bên Hoa Kỳ thì tôn vinh, tấn phong
Phạm Công Thiện là bậc Bồ tát nghệ sĩ, còn riêng người viết bài này, đã từng
hân hạnh được bắt tay, gặp mặt trò chuyện với Phạm Công Thiện ở Đại học Vạn
Hạnh, vào một chiều mùa hạ năm 1969 thì vẫn xem Phạm Công Thiện là một thi
nhân, một thi sĩ với trọn vẹn ý nghĩa của danh từ.
Chính Phạm Công Thiện
cũng thường mặc nhiên tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sĩ thuần túy mà thôi
: “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ, ai muốn hiểu sao đó thì cứ hiểu…
Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ là vô hình đột chuyển
thành ra hiện hình và hiện ảnh : Hiện hình và hiện ảnh của thơ chính là hiện
cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và phong cảnh hiện tiền…
Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ
tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở
trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng, tất cả chỉ là
thơ, khi thấy muôn sự muôn việc trên cõi đời này chỉ là thơ và thơ thôi thì lúc
ấy mới bừng sáng rực ngời lên chân thực nghĩa vô lượng vô biên của Diệu Tâm
thâm diệu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa nghiêm, thấy tất
cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp. Vì thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục hân
hoan sáng tác, sáng tạo vô ngần bất tuyệt miên man :
Tháng ngày làm thơ
chơi
Hồn bay thẳng ra khơi
Bạch phát ngút ngàn
tới
Thu phong tắt nghẹn
lời
Làm thơ lúc rửa chén
Nước chảy tuôn rỏn rẻn
Bột trắng sạch rêu đen
Bếp nhà rân tiếng én
Xin gọi đại là thơ
Làm lúc nào chẳng nhớ
Cho một cô gái nhỏ
Chưa từng gặp bao giờ
Muốn gì mà có ngay
Thì tai nạn vạ bay
Không thèm muốn gì nữa
Đời tràn ngập thơ hay
Khi thơ hay bay ngập
tràn mặt đất trần gian, thì ngôn ngữ Việt Nam cũng bay về ngợp trời xanh bát
ngát, làm trang nghiêm cho nụ cười thanh tịnh, quang minh tính thể. Thế là trên
ngõ về im lặng, người thi sĩ kỳ tuyệt của chúng ta đã xuống tận hố thẳm cũng
như đã lên tột đỉnh cao chất ngất của tâm linh và chợt bừng ngộ thấy ra toàn
thể trò đời chỉ là một cuộc đại hòa điệu chơi tối thượng, một trận du hý tam
muội lồng lộng, phiêu bồng.
Sống là chơi, chết là
chơi, yêu là chơi, thương là chơi, vui buồn, sướng khổ là chơi, có không, còn
mất là chơi, hơn thua, phải trái là chơi, thành cộng, thất bại là chơi, chiêm
bao, mộng mị là chơi, tỉnh thức, thực tế, thực tại là chơi, phiêu bạt giang hồ
khắp thế giới là chơi, giảng dạy triết lý, thi ca, thiền học là chơi, biết
nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali… là chơi, thương yêu năm nàng
tiên nữ là chơi, làm đại đức, thiền sư Nguyên Tánh là chơi, làm hành giả Mật
tông là chơi, làm văn nghệ sĩ là chơi, làm thơ làm thẩn cũng là chơi chơi hết
thảy mà thôi. Ơi chao ! Một cuộc đại hòa điệu chơi trùng trùng vô thủy vô chung
giữa mênh mông vô tận, bất khả tư nghì…Án ma ni bát di hồng. Án ma ni bát di
hồng. Án ma ni bát di hồng…
TÂM NHIÊN
__________________
Thơ Phạm Công Thiện,
trích trong 2 tác phẩm :
Ngày sinh của rắn. Nhà
xuất bản An Tiêm, Sài Gòn 1966
Trên tất cả đỉnh cao
là lặng im. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn,TP.HCM 2009
* Phạm Công Thiện.
Trên tất cả đỉnh cao là lặng im. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, TP.HCM 2009
** Phạm Công Thiện. Ý
thức mới trong văn nghệ và triết gọc. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản An Tiêm,
Sài Gòn 1966
*** Phạm Công Thiện.
Henry Miller. Nhà xuất bản Phạm Hoàng, Sài Gòn 1969
**** Phạm Công Thiện.
Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Nhà xuất bản Trần Thi, California
1988
***** Phạm Công Thiện.
Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng. Nhà xuất bản Phương Đông, TP.HCM
2008
****** Phạm Công
Thiện. Hố thẳm tư tưởng. Nhà xuất bản An Tiêm, Sài Gòn 1966