Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2020

MỪNG NĂM MỚI 2020 - MỪNG THẬP KỶ MỚI!

   Nhân ngày đầu tiên của năm 2020 mở đầu một thập kỷ mới, Phú Nepal kính chúc các bạn một năm mới - một thập kỷ mới luôn tràn đầy năng lượng tích cực, sống hạnh phúc an vui!
  Riêng Phú Nepal thì có một ước ao: được nhìn thấy Việt Nam trở thành một nước Liên Bang có nhiều vùng tự trị, người dân được tự bầu chọn  người lãnh đạo và Quốc Gia được quản lý bằng chế độ Đa Đảng trong thập kỷ 2020 này.



CẦU NGUYỆN AN LẠC ĐẾN VỚI TẤT CẢ CHÚNG SINH!

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

TIẾNG HINDI (1)


Hindi là ngôn ngữ trực hệ của Sanskrit và các thổ ngữ của văn minh sông Hằng (Ganges Civilization). Tại Ấn Độ, hơn 180 triệu người Ấn xem Hindi là tiếng mẹ đẻ, 300 triệu người xem Hindi là ngôn ngữ thứ hai. Ngoài Ấn Độ, tiếng Hindi được sử dụng  bởi hàng chục triệu người ở Nepal, Nam phi, Mỹ, Đức, Uganda, Mauritius…



Hindi phát xuất từ nhóm thổ ngữ Apabhransa vốn bị các học giả Sanskrit cổ đại xem là “ngôn ngữ không ngữ pháp” (non-grammatical language) ở vùng dọc theo sông Hằng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13, vốn là khu vực văn minh nhất tiểu lục địa Ấn Độ. Đây có thể coi như thứ tiếng của giới bình dân , đối lập với Sanskrit, vốn được coi là ngôn ngữ của Thần Linh và chỉ giai cấp Brahmin (Bà-la-môn) được phép sử dụng.

Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2018

WELCOME BACK!

Các bạn thân mến,

Sau 5 tháng đóng cửa để duyệt lại toàn bộ các bài đăng, Phú Nepal hôm nay xin trở lại cùng các bạn trên con đường mới.

______________________________
- Phú Nepal mở thêm Blog mới là GIẢI MÃ INDIA (http://giaimaindia.blogspot.com/) . Đây là blog Ấn Độ Học bằng tiếng Việt (Vietnamese Indology) với các bài viết nghiên cứu về Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá, Nghệ Thuật, Văn Hoá và Phong Tục của Ấn Độ và các vùng ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ.





___________________________

-Phú Nepal cũng sẽ cập nhật lại blog Phú Nepal (http://phunepal.blogspot.com/) để tập trung các bài viết về Nepal học (Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá, Nghệ Thuật, Văn Hoá và Phong Tục của các dân tộc Nepal).


Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

ĐẠO SIKH - PHẦN 1



Một trong những hình ảnh đặc trưng về Ấn Độ ngày nay là chân dung những người đàn ông râu dài, đầu quấn khăn Turban dầy cộm của người theo đạo Sikh. Đặc trưng đến mức cứ nhìn thấy hình ảnh người đàn ông râu dài, đội khăn Turban là người ta liên tưởng đến Ấn Độ.
   Sự thật là đạo Sikh chỉ mới hình thành khoảng 500 năm trước và số tín đồ thực sự chỉ trên dưới 24 triệu người. Tuy sinh sau đẻ muộn hơn các tôn giáo khác ở cái nôi của các tôn giáo lớn như Hindu, Phật giáo và số tín đồ rất khiêm tốn nhưng đạo Sikh lại có một ảnh hưởng mạnh mẽ lên đời sống tinh thần của người Ấn Độ, đến mức có trở thành một biểu tương cho Ấn Độ cũng không có gì là quá đáng.






  Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy rằng vó ngựa xâm lăng của các đạo quân Hồi giáo đã càn quét tiểu lục địa Ấn Độ vào thế kỷ thứ 10. Sau khi đã hoàn thành công cuốc xâm chiếm Ấn độ rộng lớn, Hồi giáo đã được các vua Islam truyền bá và áp đặt lên đời sống người Ấn, những người vốn dĩ đã sống theo lối sống Hindu suốt hơn 10.000 năm. Gốc rễ sâu đậm của văn hoá Hindu đã không bị làn sóng văn hoá Hồi giáo mới xoá sổ mà trái lại còn ảnh hưởng ngược lại những kẻ đi xâm lăng. Các hậu duệ của những kẻ Hồi giáo man rợ và khát máu được sinh ra và lớn lên trong môi trường thấm đẫm văn hoá Hindu nên đã ngày càng xa rời gốc rễ Hồi giáo mà nghiêng dần về phía Hindu. Sau vài trăm năm, một nền văn hoá mới của giới quý tộc đã hình thành ở Ấn Độ dưới thời cai trị của các ông hoàng Hồi giáo gọi là Mughal- một kiểu văn hoá tuy vẫn đề cao Hồi giáo nhưng đã thu nạp nhiều phong tục Hindu của vùng đất mới.
  Không xoá bỏ được lối sống Hindu, lại cũng không du nhập hoàn toàn được văn hoá Hồi giáo; Ấn Độ lúc bấy giờ có một xã hội chứa đầy những dị biệt, mặt này thì xung đột dữ dội, mặt khác lại hoà quyện vào nhau không thể tách rời. Hoàn cảnh lịch sử ấy thật thích hợp cho một tôn giáo mới dung nạp được tất cả những gì tốt đẹp của các tôn giáo đã có trước.   

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

TẠM BIỆT NEPAL - CHÀO MỪNG ĐẾN INDIA

Kính mời  xem blog mới: GIẢI MÃ INDIA

www. giaimaindia.blogspot.com

NAMASKAR INDIA!

Kính chào các bạn thân mến!
India là một vùng đất mà tôi đã mơ về từ khi còn ấu thơ. Có lẽ ám ảnh bởi các bộ truyện tranh về cuộc đời Đức Phật Sakya. Có lẽ những mạch ngầm của văn minh India từ thời cổ đại thấm đẫm Phù Nam, Champa, Đại Việt giờ bắt đầu nảy mầm đón nắng. Hoặc cũng có lẽ , nói theo thuyết Samsara (luân hồi), có một linh hồn người Ấn đã phiêu bạt đến trời Nam.
Tại Buddhist Cave-Kanheri, 
Sanjay Gandhi National Park, Mumbai, 

Tháng 9/2014
 Ám ảnh ấy ngày càng đậm nét sau khi tôi được đọc " Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam" của Bình Nguyên Lộc. Lớn dần lên trong tôi một sự thôi thúc tìm về nguồn cội. Cơ duyên đã đưa đẩy để từ năm 2005 tôi đến được Nepal, một vùng đất ảnh hưởng sâu sắc văn hoá India. Chín năm ở Nepal đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản để có thể dấn bước trên con đường mà tôi đã chọn như là định mệnh của đời mình: tìm hiểu về văn hoá India.

  Tôi đã bắt đầu nghiên cứu về India song song với việc nghiên cứu Nepal từ những năm đầu tiên ở Tiểu lục địa India. Tuy vậy, mãi đến cuối năm 2011, khi tham dự Hội Nghị Phật Giáo Toàn Cầu lần 1 ở New Delhi tôi mới chính thức đi những bước đầu tiên vào việc nghiên cứu India. Chuyến đi thực tế kéo dài hơn tháng sau khi kết thúc Hội Nghị qua vùng bờ biển phía Đông và vùng Trung Ấn thăm viếng các di tích Sanchi, Kalinga, Khajuraho, Varanasi,Bodh Gaya... các tiểu bang Delhi, Uttar Pradesh, Bihar, West Bengal, Orissa, Madya Pradesh... đã làm cho tôi càng thêm choáng ngợp trước một nền văn minh kỳ vĩ. Kể từ đó, mỗi năm tôi đều có ít nhất hai lần đến India, mỗi lần ba bốn tuần kéo dài có khi đến gần hai tháng, để nghiên cứu thực tế India.

  Tôi đã rời Nepal vào quý đầu tiên của năm 2014, hai tháng trước khi trận động đất kinh hoàng xảy ra. Đó không phải là sự chấm dứt việc nghiên cứu của tôi mà chính là bắt đầu một giai đoạn mới: tập trung cật lực cho chủ đề India. 
 Blog Nguyễn Phú Nepal vẫn sẽ tồn tại và cập nhật dù không thường xuyên như trước vì sức người có hạn tác giả phải tập trung sức lực cho hành trình mới là India.
  Mong các bạn ủng hộ Giải mã India như đã từng ủng hộ Nguyễn Phú Nepal.
   Namaste!

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

DANH NHÂN THẾ GIỚI TRƯƠNG VĨNH KÝ

NP: ʺ Hãy đi đi và hãy trở về, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc cho dân tộc mìnhʺ (TVK)
  Đây là câu dặn dò các học trò của Trương Vĩnh Ký khi họ lên đường du học, một kim chỉ nam cho bất cứ học trò nào vào thời hiện tại.
 Trương Vĩnh Ký là thần tượng không bao giờ phai nhạt của tôi.
Xin giới thiệu bài viết của Nguyễn Vy Khanh trên Nghiên cứu Lịch Sử tháng 08/2015:

 ______________

Trương Vĩnh Ký và chuyến Âu‐du 1863‐1864

Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ảnh khucquanhanh.vn
Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ảnh khucquanhanh.vn
Nguyễn Vy Khanh
 Sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay người Pháp (Hiệp  ước Bonard 5‐6‐ 1862, vua Tự  Đức ký 16‐4‐1863), vua Tự Đức đã gởi sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình xin chuộc lại các tỉnh đó. Phái đoàn do Phan Thanh Giản làm chánh sứ (‘Như Tây chánh sứ’), Phạm Phú Thứ  phó‐sứ  và Ngụy Khắc  Đản bồi‐sứ, tổng cộng 65 người. Phái  đoàn rời kinh thành Huế ngày 27‐6‐1863 trên chiếc tàu Echo và chính thức rời Sài‐Gòn ngày 4‐7 trên tàu chiến Européen (thuyền trưởng là Henri Rieunier), chuyến hải‐hành  đi qua Tân‐ gia‐ba, Sumatra, Tích‐lan, Aden, Ai‐cập, Jérusalem, La‐mã,  đảo Corse. Khi  đến kinh Suez ngày 17‐8, lúc bấy giờ  kinh chưa đào, phái đoàn đổi sang đi xe lửa từ  Suez  đến Alexandrie,  được cựu phó vương Ismaïl‐Pacha tiếp đón, ở lại Ai‐cập đến cuối tháng 8‐1863  đổi sang tàu Labrador  để  đi Toulon. Ngày 13‐9‐1863, tàu  đến Paris sau khi ghé Toulon và Marseille. Sau gần hai tháng chờ  đợi, ngày 5‐11‐1863, phái  đoàn mới  được vào triều kiến Pháp hoàng Napoléon III ở điện Tuileries. Từ  10‐11  đến 22‐11‐1863 sứ  bộ  đến Tây‐ban‐nha thương thảo (Palanca đồng ký Hiệp ước 1862) rồi lên đường về, ghé Ý‐đại‐lợi. Ngày 2‐12‐1863, Trương Vĩnh Ký yết kiến Giáo hoàng Pio IX  ở  Roma. Ngày 18‐3‐1864 phái  đoàn về  tới Saigon và ngày 28‐3  đến kinh‐đô Huế. Chuyến đi được xem như thất bại vì vua Napoléon III và chính phủ Pháp đã không hứa hẹn gì về việc xét lại hiệp ước! Tháng Tư  1864, triều  đình Pháp muốn bỏ  rơi Cochinchine, chính Henri Rieunier  đứng đầu nhóm thuyết phục nhà vua giữ lại (ký bút hiệu H. Abel xuất bản 2 tập La Question de Cochinchine au Point de vue des intérêts français và Solution pratique de la Question de Cochinchine ou Fondation de la politique française dans lʹExtrême‐Orient).
   Về  chuyến Âu‐du này, chánh‐sứ  Phan Thanh Giản  đã có một số  bài thơ  trong tập Lương Khê Thi Thảo. Phó‐sứ  Phạm Phú Thứ khi trở về đến kinh thành Huế đã dâng lên vua Tự Đức tập Như Tây Sứ  Trình Nhật Ký (còn  được ghi là Giá Viên Biệt Lục, Tây Hành Nhật Ký và Tây Phù Nhật Ký). Phạm Phú Thứ  viết tập Nhật Ký ghi chép việc từng ngày trong chuyến công du, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản duyệt lại (1). Ông còn là tác‐giả tập thơ Tây Phù Thi Thảo liên hệ  đến chuyến đi này.
Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho sứ bộ Phan Thanh Giản theo lời yêu cầu của chánh‐sứ họ Phan (2) và có viết một bài về chuyến đi bằng tiếng Tây‐ban‐nha ‐  ʺAlguna reflexions de su viaje por Europaʺ, một bài tiếng Pháp đăng trên tạp chí Paris (Novembre 1863) và theo tương truyền ông còn viết Nhựt trình  đi sứ  Lang‐sa (1863). Khoảng thời gian đó, một số  tạp chí bác học Âu‐châu  đã  đăng bài của ông như  Bulletin de la Société de géographie (1863) (3). Ông cũng  được cử  làm hội viên của Hội chuyên khảo về Con Người (Société dʹethnographie de Paris), và Hội chuyên học á‐châu (Société asiatique). Năm 1873, Trương Vĩnh Ký đại diện cho Việt‐Nam và là thành viên ban tổ  chức Hội nghị  quốc tế  đầu tiên về  Đông phương học (Congrès international des orientalistes) gồm 33 nước tham dự. Đến năm 1889, nhân Hội chợ quốc tế (Expo) tại Paris, Trương Vĩnh Ký lại  đại diện Việt‐ Nam dự Hội nghị quốc tế về dân tộc học (Congrès international des sciences ethnographiques).

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Lịch sử hình thành của miền nam Việt Nam

Nam_tien-2
Võ Thanh Liêm
Vương quốc cổ Phù-Nam 
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

"BỐ GIÀ" LÝ QUANG DIỆU - 2

NP: Xin đăng lại bài của Phạm Thị Hoài đã đăng trên Trẻ Online ngày 01/4/2015. 

Xem lại "Bố Già" Lý Quang Diệu 1
_______________________

Thư Lý Quang Diệu gửi Margaret Thatcher về vấn đề thuyền nhân Việt Nam
Phạm Thị Hoài
Trong tác phẩm Bên Thắng Cuộc, chương "Nạn kiều", nhà báo Huy Đức nhắc tới "Phương án II", "một kế hoạch 'được phổ biến miệng để giữ bí mật', theo đó: người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản." [1] Đó là thời điểm từ giữa năm 1978 đến giữa năm 1979, khi chiến dịch bài Hoa ở Việt Nam dâng cao và chiến tranh biên giới Việt-Trung bùng nổ. Những người vừa mất nơi sinh sống, vừa mất hết tiền của vào tay chính quyền để ra đi "hợp pháp" trong vòng bí mật và không ít cũng sẽ mất mạng trên biển trong kế hoạch này phần lớn là người Việt gốc Hoa.
Phương án bí mật, chưa bao giờ được chính quyền Việt Nam thừa nhận này, được đánh giá từ một nguồn bất ngờ khác: bức thư của cố Thủ tướng Singapore vừa qua đời, gửi cho cố Thủ tướng Anh ngày 5/6/1979, đăng trên trang Margaret Thatcher Foundation.

Chúng ta đã biết rằng Lý Quang Diệu ủng hộ sự xích lại gần nhau của Trung Quốc và Hoa Kỳ sau Chiến tranh Việt Nam để kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô. Ông cũng biện bạch cho Pol Pot, rằng Khmer Đỏ là một phương án cần thiết, chẳng qua chỉ bị giới truyền thông cường điệu lên thành ma quỷ [2]. Về xung đột biên giới Việt-Trung, ông cho rằng nếu Trung Quốc không dạy cho Việt Nam một bài học thì giờ này Liên Xô đã bành trướng thế lực ra toàn Đông Nam Á, rằng các nước trong khu vực đều hưởng lợi từ đòn phủ đầu của người Tàu. Khi ấy, Đặng Tiểu Bình đã coi ông là cố vấn và mô hình Singapore đã trở thành hình mẫu của Trung Hoa hiện đại. Họ Lý và họ Đặng gặp nhau hai lần, trò chuyện kéo dài, nồng ấm và trân trọng lẫn nhau, ngày 12 và 13/11/1978, trong chuyến thăm đầu tiên của nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Singapore. Trước đó một tháng, nhanh chân hơn, ngày 16/10/1978, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng đến Singapore tiếp kiến Lý Quang Diệu. Nhưng cuộc trò chuyện giữa họ Lý và họ Phạm, theo miêu tả của một nhà ngoại giao Singapore chứng kiến cả ba cuộc gặp mặt [3], diễn ra lạnh lẽo.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam trở thành một vấn nạn quốc tế. Khác với nhiệt tình cứu giúp những năm trước, các nước trong khu vực bắt đầu lo ngại, từ chối, thậm chí xua đuổi và có cả trường hợp nổ súng vào thuyền nhân Việt Nam. Các nước phương Tây bắt đầu đùn đẩy nhau trách nhiệm bảo lãnh. Anh quốc đóng một vai trò, vì điểm đến của những nạn kiều gốc Hoa này trước hết là Hồng Kông, trong khi Anh quốc chỉ sẵn lòng tiếp nhận tổng cộng chưa đầy 2000 người. Trước áp lực của công luận, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher thậm chí đã tính đến việc mua một hòn đảo ở Thái Bình Dương cho thuyền nhân Việt Nam định cư. Dự định này bị Lý Quang Diệu phản đối, vì lo ngại nó sẽ trở thành một đảo quốc, cũng của những người Tàu tha phương, cạnh tranh với Singpore [4].

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

LÝ QUANG DIỆU - 'BỐ GIÀ" SINGAPORE

NP: Rất nhiều nhân vật, kể cả bất đồng chính kiến, ở Việt Nam vừa rồi đã hết lòng ca tụng lên mây xanh ông Lý Quang Diệu như một thánh sống, một cha già dân tộc của Singapore. Không thể chối cãi sự thành công của LQD trong việc đưa quốc-đảo-không-tài-nguyên lên hàng top thế giới. Tuy nhiên nếu suy xét kỹ, một người có đầu óc dân chủ không thể tán đồng đường lối Machiavel mà LQD đã sử dụng tại Singapore. 
  "Tôi tin chắc rằng không phải tất cả những gì tôi đã làm đều đúng nhưng nó vì một mục đích cao quý." Câu này của LQD không khác gì "mục đích biện minh cho phương tiện" nổi tiếng; cũng không khác gì những chiếc bánh vẽ mà ĐCS đã dùng để lừa mỵ nhân dân dắt dẫn họ đi theo con đường lầm lạc nhằm tiến đến "mục đích cao quý" là một thiên đường mộng ảo.
   Khi nghe ông con trai Lý Hiển Long của ông, đương kim Thủ tướng Singapore, phát biểu trong đám tang LQD rằng: từ nay ánh sáng soi đường cho Singapore đã tắt, tôi lại thấy gai gai cột sống. Câu này nghe giống hệt những câu tán tụng vô giới hạn, vô liêm sĩ của bọn văn nô , bồi bút trong thế giới cộng sản mỗi khi có một lãnh tụ cộng sản qua đời. 
     Hành động bắt giữ Amos Yee mới đây chỉ chứng tỏ cho thấy sự thật trần trụi đằng sau cái hình ảnh vẫn được những người tuyên truyền mạ vàng về sự phồn vinh của Singapore. 
    Xin đăng lại bài viết trên BBC để thấy cách thức mà Lý Quang Diệu đối xử với thuyền nhân tỵ nạn, với người nghèo Việt Nam như thế nào khi so với việc tay bắt mặt mừng, thậm chí "dẫn đàng đi buôn" (Lý Quang Diệu và nhóm thân hữu là nhà đầu tư đầu tiên và lớn nhất ở Việt Nam) cho cộng sản Việt Nam.
____________


Lý Quang Diệu với thuyền nhân Việt Nam

  • 30 tháng 3 2015
Ông Lý Quang Diệu làm Thủ tướng đầu tiên của Singapore với nhiệm kỳ từ 1959-1988.
Ông Lý Quang Diệu trong thời kỳ nắm quyền lãnh đạo ở Singapore trước đây đã từng theo đuổi một chính sách được cho là 'sắt đá' có lúc, có phần gây bất lợi cho một số thuyền nhân Việt Nam, những người đã từ bỏ đất nước trên những con thuyền trên Biển Đông, theo lời nhân chứng nói với BBC.
Tuy nhiên, cũng cần 'thông cảm' và 'công bằng' đối với ông Lý Quang Diệu vì ông không phải là lãnh đạo duy nhất ở Đông Nam Á đã nói 'không' với nhiều trường hợp thuyền nhân cần tìm chỗ 'đáp lên bờ' và 'tị nạn' khẩn cấp vì các lý do thiết yếu, vẫn theo lời nhân chứng.
Trao đổi với BBC hôm 28/3/2015, một nhân chứng trong chương trình người Việt tự cứu thuyền nhân trên Biển Đông, được biết tới là chương trình 'Máu chảy ruột mềm' những năm nửa cuối thuộc thập niên 1970, sau diễn biến 30/4 ở Sài Gòn, trước hết nói với BBC về cảm nghĩ của mình trước tin vị quốc phụ của Singapore vừa tạ thế.
"Tôi nghĩ là ông Lý Quang Diệu vừa qua đời, thì thế hệ sau này chắc là ai cũng ca ngợi ông ấy hết," Sư cô Chân Không, từ Đạo tràng Làng Mai, một cộng đồng Phật giáo Việt Nam, tại Tây Nam nước Pháp nói.

Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

HOA KỲ MẮC BẪY TRUNG CỘNG NHƯ THẾ NÀO?

Chiến lược bí mật của Trung Quốc bị phơi bày

Tác giả: Bill Gertz
Người dịch: Trần Văn Minh
2-2-2015
Hình chụp binh sĩ trong ngày Biểu diễn Không quân đầu tiên tại thành phố Trường Xuân, phía đông bắc tỉnh Cát Lâm của Trung Quốc, ngày 1-9-2011 / AP
Hình chụp binh sĩ trong ngày Biểu diễn Không quân đầu tiên tại thành phố Trường Xuân, phía đông bắc tỉnh Cát Lâm của Trung Quốc, ngày 1-9-2011 / AP
Bắc Kinh lập kế hoạch để qua mặt Hoa Kỳ trong thập niên sắp tới
Trung Quốc tiến hành một chương trình bí mật hiện đại hóa 100 năm và đã lừa dối chính quyền Mỹ nhiều nhiệm kỳ liên tiếp trong việc vô tình thúc đẩy chiến lược của Bắc Kinh để thay thế trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu với một hệ thống kinh tế và chính trị do cộng sản Trung Quốc thống trị, theo cuốn sách mới của một chuyên gia kỳ cựu của Ngũ Giác Đài về Trung Quốc.
Trong hơn bốn thập niên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ru ngủ tổng thống, bộ trưởng, các nhà phân tích của chính phủ và các nhà hoạch định chính sách vào việc đánh giá sai lầm về Trung Quốc là một quyền lực ôn hòa, đáng nhận được sự hỗ trợ của Mỹ, ông Michael Pillsbury, một nhà phân tích nói tiếng Quan Thoại và làm việc trên lãnh vực chính sách và tình báo Trung Quốc cho chính quyền Mỹ từ thời Richard Nixon, cho biết.
Chiến lược bí mật, dựa trên phương cách quản lý quốc gia của Trung Quốc cổ đại, đã tạo ra một sự di chuyển tiền mặt, kỹ thuật và chuyên môn trên quy mô lớn, điều đã hỗ trợ các phần tử “diều hâu” trong đảng Cộng sản Trung Quốc, là kẻ hiện đang tiến hành các bước để bắt kịp và cuối cùng qua mặt Hoa Kỳ, Pillsbury kết luận trong cuốn sách được xuất bản tuần này.

Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc


NP: Nhà hoạt động nhân quyền - Nobel Hoà Bình 2010 Lưu Hiểu Ba của Trung quốc có bài viết sau đây về cơn sốt Khổng Tử và Viện Khổng Tử. Thiết nghĩ, tiếng nói của một nhân vật Trung Quốc , từ bên trong Trung Quốc về hiện tượng phục hưng Khổng Tử là không còn gì chính xác hơn.
_____________________

Lưu Hiểu Ba - Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc

Người Trung Quốc đang đẩy mạnh sự trỗi dậy của một siêu cường. Sự đi lên của nền kinh tế dẫn tới sự đi lên văn hóa, với túi tiền to mang đi rải khắp toàn cầu kèm theo việc xuất khẩu sức mạnh mềm. Trong nước thì sau khi người ta tiếp tục cơn sốt đọc kinh thư, thờ Khổng Tử, thờ Nho Giáo, bây giờ CCTV qua chương trình “Bách gia giảng đường” khơi ra cơn sốt đọc lại các tác phẩm của Khổng Tử nhằm phục hồi lại hệ thống đạo đức truyền thống; ở hải ngoại, Trung Cộng bỏ ra khoản tiền khổng lồ xây dựng hệ thống các học viện Khổng Tử nhằm quảng bá sức mạnh mềm ra thế giới. Tâm lí muốn làm bá chủ thiên hạ sau khi bị đè nén hơn trăm năm nay lại được dịp phát tiết ra ngoài, Khổng thánh nhân ở trong nước lẫn hải ngoại hợp lại làm một trận tuyến, cơn sốt Khổng Tử càng lúc càng nóng. 
Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa
Đằng sau cơn sốt này, tôi không cho rằng đó là sự phục hưng của văn hóa truyền thống, mà là làm sống lại truyền thống sung bái thánh nhân, là một phần trong kế hoạch nhằm đẩy mạnh làn sóng dân tộc cực đoan trong nước. Nguyên nhân là từ sau vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989, nhà nước một mặt chống lại xu hướng tự do hóa và chống “diễn biến hòa bình”, một mặt khác thì châm ngòi, chổng mông thổi bùng lên làn sóng dân tộc cực đoan.

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Giải mã bí ẩn Ấn Độ?

  Nguyễn Gia Kiểng (11/2013)
Link gốc: http://www.ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=4897%3Agi-i-ma-bi-n-n-d-nguy-n-gia-ki-ng&catid=44&Itemid=301

**********************

“…Phép mầu lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong thế kỷ 21 cũng thế. Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành công…”
 

Ngay trước khi tôi sắp lên đường đi thăm Ấn Độ một bạn trẻ trong nước hỏi tôi trên Facebook: "Tại sao Ấn Độ có dân chủ mà lại tụt hậu, nghèo đói, bất công, dơ bẩn, đàn ông hay hãm hiếp?". Tôi không thể trả lời câu hỏi đó vì đối với tôi Ấn Độ là một thành công và tôi đang cố gắng giải mã thành công đó, nghĩa là tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại thành công dù trước đây mọi dự đoán đều rất bi quan?
Những gì mà trong tuổi thanh thiếu niên tôi nghe được về Ấn Độ đều mô tả một đất nước kinh dị, nghèo khổ và dơ bẩn một cách huyền bí. Trong thập niên 1960 khi du học tại Pháp tôi may mắn có một người bạn thân mà cha mẹ là hai ông bà bác sĩ từng làm công tác nhân đạo nhiều năm tại Ấn Độ và đã góp phần quyết định đẩy lùi bệnh hủi tại đây. Tôi lui tới thường xuyên gia đình này và được coi như người nhà. Qua họ tôi cũng quen biết nhiều chuyên gia khác về Ấn Độ. Những gì hai ông bà và các bạn họ nói cũng phù hợp với những gì có thể đọc trong các sách và báo: Ấn Độ không có tương lai, người ta chỉ có thể vì lòng nhân đạo mà giúp nó đỡ nghèo khổ chứ không thể giúp nó vươn lên. Ấn Độ có tất cả mọi khó khăn mà một quốc gia có thể có và đều có ở mức độ nguy kịch. Nghèo khổ, dơ bẩn, tham nhũng và bất công cùng cực, các bệnh truyền nhiễm lan tràn, con người bệnh tật, mê tín dị đoan và bi quan yếm thế. Đã thế Ấn Độ lại không phải là một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn độn với gần 2000 ngôn ngữ và hơn 500 vùng dị biệt xuất phát từ những chiến quốc cũ không có và cũng không muốn có quan hệ hợp tác với nhau. Trong lòng một mình Ấn Độ có nhiều di biệt và tương phản hơn cả trong phần còn lại của thế giới. Người Ấn Độ trong tuyệt đại đa số không biết đọc biết viết và không nhìn nhau như đồng bào. Mẫu số chung của cái thế giới hỗn tạp này chỉ là sự nghèo khổ, bệnh tật, dơ bẩn ngoài mức tưởng tượng. Ra ngoài đường ở bất cứ thành phố nào người ta không thể không thấy những đoàn người hốc hác vì đói trong đó có nhiều người đang chết đói. Một vấn đề nghiêm trọng khác là nạn nhân mãn. Ấn Độ đã quá đông dân và mỗi năm vẫn thêm một số người tương đương với dân số của cả nước Úc. Kết luận, Ấn Độ hoàn toàn tuyệt vọng. Những trí thức thân cộng, rất đông đảo trong suốt thập niên 1960, đôi khi so sánh Ấn Độ và Trung Quốc để bênh vực cho chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo họ hai nước lớn này đã chọn hai con đường khác nhau vào cùng một thời điểm và thực tế cho thấy là Trung Quốc đã hơn hẳn Ấn Độ, điều này chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. So sách này khập khiễng bởi vì hai nước khởi hành từ hai mức độ quá khác nhau.
Thế rồi người ta càng ngày càng ít nói tới Ấn Độ. Chưa ca tụng Ấn Độ nhưng cũng ít ai còn nói Ấn Độ là một trường hợp tuyệt vọng nữa. Tới gần ngưỡng cửa thế kỷ 21 Ấn Độ được nhắc tới như là một thành công. Trong những năm gần đây không còn ai phủ nhận Ấn Độ là một cường quốc đang lên và tư cách thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ còn là vấn đề của một vài năm.
Không những thế, sự thành công của Ấn Độ lại rất lành mạnh. Ấn Độ không "đi nước dưới" như Trung Quốc và hầu hết các nước đang phát triển, nghĩa là khai thác nguồn nhân công rẻ để xuất khẩu quần áo, giày dép và những sản phẩm kỹ thuật thấp.  Ngược lại, Ấn Độ "đi nước trên" và cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong những kỹ thuật hiện đại: công nghệ thông tin, điện tử, sinh hóa, dược phẩm, kỹ nghệ ôtô, hàng không v.v.

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.
  Hai vợ chồng Charumati khi lớn tuổi đã cùng nhau ước nguyện xây dựng mỗi người một ngôi chùa Phật ở Deopatan. Ông hoàng Kirat mất trước, chưa kịp hoàn thành tâm nguyện. Riêng Charumati thì hoàn thành được ngôi chùa ngày nay gọi là Charumati Vihara theo Sanskrit , hoặc theo tiếng Newar là Charumari bahil, thường gọi tắt là Chabahil. Đây chính là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Thung lũng Kathmandu. Cộng đồng họ Sakya của Đức Phật Sakya di tản từ Kapilvastu lên Kathmandu Valley 2500 năm trước đã định cư ở khu vực Chabahil này và là cộng đồng Sakya lâu đời nhất của Thung lũng Kathmandu.

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

LẠM BÀN VỀ “CHÚ” VÀ “THẦN CHÚ”

Bài quá hay. Cám ơn tác giả Phạm Lưu Vũ và nhà văn Nguyễn Trọng Tạo, xin phép hai bác được đưa bài này về đây để em lưu làm tài liệu. Kính!
NP 
Link: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/11/16/lam-ban-ve-chu-va-than-chu/
PHẠM LƯU VŨ
Nói đến “chú” (hay “thần chú”), thường dễ bị quy chụp ngay là mê tín dị đoan. Ấy là khi chưa hiểu thực chất của “chú” là gì? kể cả người đọc “chú” lẫn người nghe “chú”, rằng “chú” có từ khi nào?,  ai là người lập ra “chú”?, hiệu nghiệm của nó ra sao?, khi nào có hiệu nghiệm?, tại sao lại có hiệu nghiệm?, v,v… Chưa kể các loại “thầy, bà…” xưa nay thường sử dụng “chú” vào những mục đích không mấy lương thiện của họ, điều này càng làm cho “chú” dễ bị hiểu lầm. 
Lục tự thần chú "Om Mani Padme Hum" của Quán Thế Âm Bồ Tát

Nay bàn về “chú”, trước hết xin hãy gạt những thứ đó sang bên cạnh cái đã.
Trong 6 nguyên tắc biên dịnh Kinh Phật từ Phạn ngữ sang Hán ngữ do pháp sư Huyền Trang đưa ra, có 1 nguyên tắc là chỉ phiên âm mà không dịch khi gặp các trường hợp sau:
1- Những từ có quá nhiều nghĩa lý thâm sâu: ví dụ Bát Nhã, Ba La Mật, Tam Muội…
2- Những câu “chú”, bài “chú”.
Nghĩa là “chú” chỉ được phép phiên âm, mà không dịch. Kể cả những đoạn “chú” nằm trong kinh văn, thì khi đọc tụng, phần kinh văn có thể tụng lời dịch, còn “chú” thì (bắt buộc) phải tụng theo phiên âm.
Đời sau nhiều người vẫn tìm cách dịch nghĩa các câu “chú” hoặc bài “chú” đó. Song cũng chỉ là dịch để biết, biết (1 phần rất nhỏ) nghĩa lý thế thôi, chứ nếu đọc hoặc tụng theo lời dịch thì dứt khoát không có tác dụng. “Chú” (như sau đây sẽ thấy), là một dạng “ngôn ngữ” đã ra ngoài nghĩa lý thông thường vậy.
Xin “mở ngoặc” một tí: Trong cuộc đời đôi khi cũng gặp những trường hợp tương tự như “chú”. Ví dụ những “mật khẩu” dùng trong quân đội chẳng hạn. Đó là những khẩu lệnh của 1 phía nhằm “quy ước” sẽ thực hiện 1 hành động nào đó mà phía bên kia dẫu có nghe thấy cũng không tài nào hiểu được. Đừng tìm cách “giải nghĩa (đen)” của cái “mật khẩu” ấy làm gì, việc đó không những vô nghĩa, thậm chí có thể dẫn đến… mất mạng như chơi (trường hợp Dương Tu giải thích mật khẩu “kê cân” của Tào Tháo trong truyện Tam Quốc là 1 ví dụ). Trường hợp này và những trường hợp tương tự cũng có thể gọi là 1 dạng “chú”, đó là “chú” của phàm trần (gọi là “phàm chú”).
Vậy “chú” là gì?
“Chú” (từ đây có nghĩa là “thần chú” để phân biệt với “phàm chú”), có thể (tạm) hiểu là những MẬT NGỮ do một bậc giác ngộ hoặc một bậc đắc đạo nào đó đưa ra nhằm “chỉ thị” hoặc “ra lệnh” cho những đồ chúng, quyến thuộc… của vị đó ở những cõi giới khác cõi phàm phải thực hiện một công việc gì đó, một “quyền năng” nào đó đã có “nguyện” (hay giao ước) từ trước.

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

NAGALAND VÀ LỄ HỘI CHIM MỎ SỪNG


Các chiến binh Naga trong lễ hội Hornbill 2010


  1-NGƯỜI NAGA
   Với những người mê say văn hóa dân tộc của India, những tay mê say du lịch bụi, mong thám hiểm những vùng đất hoang dã thì đặt chân đến Nagaland luôn là một ước mơ cháy bỏng.

  Nagaland nằm xa xôi cách trở ở khu vực Đông Bắc India giáp biên giới với Myanmar (Miến Điện). Đây là tiểu bang có quy chế tự trị cao nhất trên toàn India, là vùng đất của rất nhiều bộ lạc thuộc chủng tộc Naga. Sự phức tạp là ở chỗ các bộ lạc Naga cư trú trải dài từ Nagaland sang đến miền Bắc Myanmar. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nagaland là nơi đụng độ giữa quân đội Nhật và Đồng minh Anh-Ấn với sự tham gia can trường của những chiến binh Naga, cũng là nơi chứng kiến thất bại đầu tiên của quân đội Nhật trước quân Đồng Minh tại Đông Nam Á.  Sau WW2, từ giữa thập niên 1950, các nhóm vũ trang của người Naga đã tiến hành chiến tranh để đòi thành lập một "Đại Naga" (Greater Naga) bao gồm cả một phần lãnh thổ của Myanmar. Mãi cho đến năm 2007, chính phủ India mới dàn xếp được sự ngừng bắn với các lực lượng vũ trang đòi độc lập của người Naga.  Một hiểm họa khác mà chính phủ India mong muốn không bao giờ xảy ra: Nagaland trở thành cửa ngõ để thuốc phiện từ Tam giác vàng tràn vào Nam Á. Vì yếu tố địa chính trị phức tạp, cộng thêm tình hình bạo loạn luôn chực chờ bùng phát nên Nagaland được xếp vào Restrict Area (Vùng Cấm) của India.
 
  Nói đến Nagaland người nghĩ ngay đến hai "Đặc sản": các bộ tộc săn đầu người và lễ hội Hornbill . Tập tục săn đầu người của một số bộ lạc Naga đã bị thực dân Anh ngăn cấm và khai tử vào đầu thế kỷ 20. Tuy chính thức trên giấy tờ là vậy, nhưng vì là một tập tục tôn giáo thiêng liêng của người Naga, người ta đồn rằng ở những vùng sâu vùng xa heo hút thỉnh thoảng vẫn có người …. mất đầu. Du khách từ bên ngoài vào Nagaland được căn dặn tuyệt đối không đi một mình, không lang thang vào vùng sâu vùng xa, không lang thang trong đêm tối nếu không có cảnh sát hay quân đội hộ tống. Thế là đặc sản thứ nhất khó xơi phải không các bạn? Mà thú thực chắc chẳng ai muốn trải nghiệm tìm kiếm đặc sản ấy làm gì… he he…

Tục thờ sọ người của một vài bộ lạc Naga vẫn còn tồn tại

     
  Còn lại đặc sản thứ hai thì đó chính là lý do mà du khách tập trung về Nagaland: Hornbill Festival.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

TẾT INDIA-DIWALI Ở... WHITE HOUSE

  Mấy hôm rồi bận tối mắt tối mũi nên check mail không kỹ, để sót một cái mail từ ...White House... he he...Like 1000 lần cho câu: "We want to make the White House the “people’s house,” we mean all people." Đây mới thực sự là "Của Dân, Do Dân, Vì Dân"; không phải Quân đội Nhân dân, Tòa án Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân... nhưng Ngân hàng Nhà Nước...
  NP
************************

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

TẾT MITHILA-CHHATH PHẦN 2: THẦN MẶT TRỜI SURYA

TẾT MITHILA-CHHATH PHẦN 1
*****************************************************
PHẦN 2: THẦN MẶT TRỜI SURYA



    Vừa rồi là một loạt các Tết của India và Mithila (một quốc gia thời cổ đại của India). Có một mối liên quan giữa Tết India-Diwali và Tết Mithila-Chhath: gia đình Thần Mặt trời Surya. Để có thể hiểu rõ thêm về lịch sử và phong tục cổ xưa của các Tết này, mời các bạn cùng lướt qua câu chuyện về gia đình Thần Mặt trời Surya.
   Surya theo Sanskrit có nghĩa là "Ánh sáng chói lọi huy hoàng", từ Surya theo văn minh India thường được xem là đồng nghĩa với mặt trời. Thần Surya là vị thần đứng đầu trong các thần liên quan đến các hành tinh. Vị thần này thường được mô tả ngự trên một cỗ xe do bảy con ngựa kéo. Bảy con ngựa này tượng trưng cho 7 ngày trong một tuần.

Thần Mặt trời Surya

   Trong cõi thần linh có vị thần Vishwakarma là Thần Kiến trúc và Xây dựng. Ông này có một cô con gái là Sanjana (nghĩa mà mềm, mỏng manh) rất đẹp nhưng tính tình đỏng đảnh, khó chịu nên mãi chưa có ai đến rước có mòi trở thành "ống chề"…. Vishwakarma liền tìm đến Surya và ngỏ lời gả Sanjana cho Thần mặt trời. Vốn nể trọng bậc niên lão Vishwakarma nên Surya đồng ý không chút đắn đo.
    Sanjana về với Surya một thời gian thì thói đỏng đảnh lại trỗi dậy. Cô nàng nhận thấy rằng sức nóng và ánh sáng chói lọi của Surya là cháy sạm làn da trắng toát của nàng và trên hết nàng luôn bị che khuất bởi hào quang của ông chồng vĩ đại. Vì làn da nàng trở nên sẫm màu, các vị thần gọi đùa nàng là Sandhya nghĩa là Chạng Vạng hi hi… Thế là Sanjana quyết định bỏ trốn. Nàng tạo ra một nàng Sanjana nhân bản vô tính ( he he… đây có lẽ là sản phẩm nhân bản vô tính đầu tiên trong lịch sử) giống nàng như đúc và gọi là Chhaya, nghĩa là "cái bóng" (các bạn chú ý đến tên Chhaya nhé vì đấy chính là nguyên gốc của từ Chhath-Tết của người Mithila). Nàng bố trí cho Chhaya thay thế mình để ở bên cạnh Surya và bỏ trốn về nhà Vishwakarma.

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

TẾT NEWAR Ở KATHMANDU

CHÚC MỪNG NĂM MỚI NEWAR 1134!

Cộng đồng Newari diễu hành mừng Nepal Sambat 1134 ở Kathmandu

Cộng đồng Newari diễu hành mừng Nepal Sambat 1134 ở Patan

Mình đang theo các lễ hội để lấy tin và ảnh.
Sẽ cập nhật vào chiều nay, mời các bạn đón xem!

Ngày đầu năm 1134 của người Newari.
Kathmandu

Phú Nepal