Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Phật giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2019

Về quê Đức Phật

Nguyễn Phú tại Nepal năm 2018
NP: Hôm rồi lang thang trên mạng, tình cờ tìm lại được một bài mình viết cách đây 12 năm vẫn còn lưu trên trang Quảng Đức - Australia. Đọc lại thấy những thông tin về quê hương Đức Phật Thích ca vẫn chính xác nên chia sẻ về đây hầu bạn đọc. (Có cập nhật thông tin và bổ sung hình ảnh từ các lần trở lại đây vào các năm từ 2012-2018)
Mùa An Cư Kiết Hạ 2019
_________________________








Về quê Đức Phật 
Nguyễn Phú

---o0o---


I- Đường đến Lumbini

Về Lumbini, khách hành hương thường đi từ Ấn Độ sang sau khi đã thăm viếng các thánh địa Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Sarnath (vườn Lộc Uyển), Kausinara (Câu Thi La),  vì Nepal có chính sách visa miễn phí cho các du khách chỉ ở trong vòng 3 ngày. Các công ty du lịch tận dụng điểm này để tiết kiệm chi phí. Tuy vậy, việc tổ chức như thế sẽ làm khách hành hương rất cập rập, lúc nào cũng chạy đua với thời gian, không thể buông xả tất cả đúng theo ý nghĩa một cuộc hành hương. Hơn thế nữa, cũng có thể khách sẽ không có thời gian thăm viếng các thánh tích khác liên quan đến giai đoạn đầu cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni như cổ thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), thành phố Butwan - kinh đô cũ của vương quốc Kolya, quê ngoại của Đức Phật. Từ Ấn Độ sang Nepal sẽ qua cửa khẩu Sunauli cách thị trấn Bhairahawa 5km  và Lumbini 30km.
Ngã tư trung tâm Thành phố Bhairahawa - đi về các hướng Lumbini, Sunauli, Butwal, Kathmandu - 2019

Thị trấn Bhairahawa, tên chính thức trong hành chính là Sidharthanagar, nhưng tên Bhairahawa thường dùng hơn, tương đối phát triển so với một số thị trấn và thành phố khác ở Nepal vì là một trong hai cửa khẩu chính xuất nhập hàng hóa của Ấn Độ. Nơi đây có một sân bay nội địa, các khách sạn tương đối tốt (có cả khách sạn bốn sao), hạ tầng viễn thông và dịch vụ đầy đủ. Trước đây du khách quốc tế thường phải nghỉ đêm lại tại thị trấn này vì ở Lumbini không có khách sạn và không an toàn do tình hình chiến tranh. (Hiện tại - năm 2018-2019- xung quanh khu vườn thiêng Lumbini số lượng khách sạn từ 1 đến 5 sao đã hơn gấp nhiều lần Bhairahawa. NP)

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2019

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


  SỰ THỜ PHƯỢNG THẦN TÀI DZAMBALA 
TRONG PHẬT GIÁO
(Triết lý về sự giàu có của PHẬT GIÁO Tây Tạng)
TƯỢNG DZAMBALA THUỘC GALLERY "TƯỢNG VÀNG THÍCH CA"
Thuở xưa, khu vực cội bồ đề thiêng, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo vẫn còn hoang vắng, chuyện kể rằng Đại sư Atisha đang tản bộ trong Bồ-đề-đạo-tràng thì gặp một ông lão sắp chết đói. Ngài Atisha rất buồn cho thảm cảnh  của ông lão; không có chút thức ăn nào để bố thí cho ông lão, nên Ngài đã cắt thịt của mình để cho ông lão.
“Làm sao tôi có thể ăn thịt của một vị tăng?” Ông lão từ chối ăn thịt Ngài.
 Đại sư Atisha nằm xuống, cảm thấy một nỗi buồn và bất lực thì  một luồng sáng trắng đột nhiên xuất hiện trước ngài. Đó là Đức Quán Thế Âm nghìn tay, Ngài nói với Atisha, “Ta sẽ hóa thân thành Dzambala, một vị Phật của sự giàu có để cứu khổ chúng sinh. Ta sẽ làm dịu bớt sự nghèo khổ của họ để họ sẽ không bị phân tâm khỏi sự thực hành lòng từ.”
Ai cũng muốn có tiền! Như mọi người biết, khi một ai đó giàu, thật dễ dàng để không ích kỷ và phát triển lòng bao dung. Bởi vậy, mục đích sùng mộ hay hành trì theo Dzambala là để loại trừ những nỗi bất an, lo lắng về tiền bạc để không bị phân tâm bởi sự nghèo khổ và thiếu thốn về tài chính mà tập trung cho sự trưởng dưỡng lòng Từ Tâm, Thanh tịnh Thân Tâm và hành trì tu tập.
***********
HÌNH TƯỢNG:


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/

Màu da vàng kim của Dzambala tượng trưng sự thịnh vượng, tăng trưởng và phát triển: trong ngắn hạn, Ngài có thể mang đến cho chúng ta của cải vật chất và giúp đỡ chúng ta khỏi nghèo túng, nhưng quan trọng hơn, pháp hành trì  hay lòng lòng sùng mộ Ngài có thể mang cho chúng ta sự giàu có tâm linh và phát triển cá nhân để trở thành người hoàn thiện hơn.

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2019

PHẬT DƯỢC SƯ (Medicine Buddha – Bhaiṣajyaguru)


TƯỢNG PHẬT DỰỢC SƯ (MEDICINE BUDDHA) TƯỢNG VÀNG THÍCH CA

do Nghệ nhân PIPENDRA SHAKYA thực hiện
Mạ vàng 24K toàn bộ, Cao 36cm, nặng 5,66 kg


HÌNH TƯỢNG: Hình tượng thông thường chúng ta thấy là tay trái cầm nhánh thuốc, tay phải cầm bình thuốc, thân mặc cà sa, ngồi kết già trên hoa sen, có khi tay trái cầm bát thuốc, tay phải cầm viên thuốc, nhằm để hiển bày lòng từ bi trừ sạch bệnh khổ (tất cả những bệnh tật thân thể bao gồm cả tâm bệnh và nghiệp ác) cứu độ chúng sanh.

DANH HIỆU: DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI PHẬT
Ý NGHĨA DANH HIỆU:
-DƯỢC SƯ: thầy thuốc hoặc phương thuốc, tượng trưng cho sự trị liệu Thân Bệnh, Tâm Bệnh, Nghiệp Bệnh của chúng sanh.
-LƯU LY QUANG: Ánh sáng rực rỡ có ánh xanh lam như Ngọc Lưu Ly (Lapis Lazuli). Tượng trưng cho sự thanh tịnh của ba Nghiệp: Thân-Khẩu-Ý.
ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT DƯỢC SƯ: cứu vớt nỗi khổ, trị lành các căn bệnh và giúp cho mong cầu của chúng sanh được thành tựu đầy đủ.

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2018

LỄ VU LAN NGUYÊN THỦY

Nhân mùa Vu Lan xin post lại loạt bài đã đăng trên Giác ngộ vài năm trước về Lễ Vu Lan. Lý do là vì mình đọc được rất nhiều bài viết đảo điên thứ tự về lễ Vu lan, kể cả của các "học giả" . Thay vì phải lần tìm về nguồn cội của một nghi lễ có xuất xứ từ chính Đức Phật (do chính Phật Thích-ca lập nên, nghĩa là trên 2500 năm), tại địa phương của nó, các "học giả" nhà ta lại lộn đầu xuống đất, dịch ngược từ VU-LAN của tiếng Trung Quốc sang tiếng Sanskrit thành ULLAMBALA, khiên cưỡng theo cái nghĩa TỘI TREO NGƯỢC - một trong những hình phạt ở địa ngục. Đăng bài này lại để nhắc các "học giả" rằng Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ, không phải Trung Quốc và dịch ngược danh từ riêng từ tiếng Trung quốc về tiếng Phạn sẽ đi sai đường. Hãy trả lại Cesar cái gì của Cesar!



PHN 1: KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC LỄ VU-LAN Ở KATHMANDU, NEPAL

*********


Vu Lan "Bồn"


Chúng tôi đoan chắc rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana; nghĩa bóng là Lễ Cúng Dường mùa Vu Lan (không phải dịch ngược Vu lan từ tiếng Trung sang tiếng Phạn thành ullambala - tội treo ngược rồi áp đặt nghĩa Lễ Đảo Huyền cho Vu lan như một số "học giả" vẫn làm vào kỳ Vu lan hàng năm - NP).




Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng). GULPA và GULU chính là từ nguyên của Vu-lan Bồn.






  Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương tại đây. Một trong những lễ trọng trong năm, hoặc có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu-lan. Lễ Vu-lan của Nepal có gì khác với lễ Vu-lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy?

Thứ Ba, 14 tháng 3, 2017

GYALWANG DRUKPA chỉ là nhà sư cấp bậc thấp trong Phật giáo Tây Tạng

NP: Nhơn dịp cúng bái ở Bảo Tháp Tây Thiên tháng 03/2017, "Tập đoàn buôn thần bán phật" của Thích Minh Hiền và đồng bọn sau khi thoát khỏi kiếp nạn "xây dựng không phép-phá hoại chùa hương" vẫn chứng nào tật nấy, linh đình đón rước tên tay sai Trung Cộng đội lốt nhà sư về Việt Nam. Tờ báo lá cải bưng bô VNExpress vẫn còn già mồm tung hô Gyalwang Drukpa là "pháp vương" bất chấp GHPGVN đã từng lên tiếng về vấn đề này vào năm 2015.
 Chúng tôi xin mạn phép đăng lại bài này để các bạn biết rõ: Gyalwang Drukpa chỉ là một nhà sư có cấp bậc rất thấp trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, chớ không phải Quan Âm Tái thế như dòng Drukpa, tập đoàn Thích Minh Hiền và VNExpress xưng tụng.
VNExpress lại hân hoan phong tặng Gyalwang Drukpa tôn xưng "pháp vương"
 ______________
 Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

"PHÁP VƯƠNG" CHỈ LÀ VÔ DANH TIỂU TỐT TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG

ĐẠI HỘI LẦN THỨ 12 CỦA 4 DÒNG TRUYỀN THỪA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG VÀ ĐẠO BON NĂM 2015     



_________
Kính thưa quý vị độc giả,
Sau khi chúng tôi post loạt bài về “pháp vương” Gyalwang Drukpa 12, đã có một số ý kiến trên các trang mạng khác bào chữa không có chứng cứ và lý lẽ cho nhân vật này. Có ý kiến nói rằng: không thể chỉ thấy Gyalwang Drukpa 12 không có mặt ở Global Buddhist Congregation lần thứ 1 hoặc các hội nghị Phật giáo quốc tế,  mà cho rằng nhân vật này không có uy tín đối với Phật giáo quốc tế. Tuy nhiên tất cả các ý kiến phản bác đó  đã không đưa ra bất kỳ một chứng cớ nào về mặt tư liệu hay hình ảnh cho thấy Gyalwang Drukpa 12 là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc tế, có giao tiếp với các lãnh đạo thế giới. Ngược lại, theo đường link Gyalwang Drukpa trên wikipedia chúng tôi chỉ tìm được hình ảnh và tư liệu cho thấy Gyalwang Drukpa 12 sánh đôi trên thảm đỏ cùng với cựu người mẫu Playboy: Christie Brinkley.
    

Về mặt quốc tế thì vậy, thế còn về mặt nội bộ của Phật giáo Tây Tạng thì sao?
   Khi du nhập giáo phái Drukpa vào Việt Nam, người ta đã nguỵ biện, đánh tráo sự thật để đồng hoá ‘pháp vương” Gyalwang Drukpa 12 và giáo phái Drukpa như là Mật tông Tây Tạng. Vậy, sự thật về VỊ TRÍ CỦA GYALWANG DRUKPA 12 TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG LÀ THẾ NÀO?

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

"PHÁP VƯƠNG" CHỈ LÀ VÔ DANH TIỂU TỐT TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG



ĐẠI HỘI LẦN THỨ 12 CỦA 4 DÒNG TRUYỀN THỪA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG VÀ ĐẠO BON NĂM 2015     




(Xin cám ơn đệ tử của “pháp vương”, Sen Hoa, đã cung cấp thông tin cho chúng tôi về đại hội đề cập trong bài này. Đồng thời cũng cám ơn nguồn tin của Bộ Nội Vụ Nepal đã cung cấp thêm thông tin về giáo phái Drukpa cho chúng tôi).
 ___________

Kính thưa quý vị độc giả,
Sau khi chúng tôi post loạt bài về “pháp vương” Gyalwang Drukpa 12, đã có một số ý kiến trên các trang mạng khác bào chữa không có chứng cứ và lý lẽ cho nhân vật này. Có ý kiến nói rằng: không thể chỉ thấy Gyalwang Drukpa 12 không có mặt ở Global Buddhist Congregation lần thứ 1 hoặc các hội nghị Phật giáo quốc tế,  mà cho rằng nhân vật này không có uy tín đối với Phật giáo quốc tế. Tuy nhiên tất cả các ý kiến phản bác đó  đã không đưa ra bất kỳ một chứng cớ nào về mặt tư liệu hay hình ảnh cho thấy Gyalwang Drukpa 12 là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc tế, có giao tiếp với các lãnh đạo thế giới. Ngược lại, theo đường link Gyalwang Drukpa trên wikipedia chúng tôi chỉ tìm được hình ảnh và tư liệu cho thấy Gyalwang Drukpa 12 sánh đôi trên thảm đỏ cùng với cựu người mẫu Playboy Christie Brinkley.

    


Về mặt quốc tế thì vậy, thế còn về mặt nội bộ của Phật giáo Tây Tạng thì sao?
   Khi du nhập giáo phái Drukpa vào Việt Nam, người ta đã nguỵ biện, đánh tráo sự thật để đồng hoá ‘pháp vương” Gyalwang Drukpa 12 và giáo phái Drukpa như là Mật tông Tây Tạng. Vậy, sự thật về VỊ TRÍ CỦA GYALWANG DRUKPA 12 TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG LÀ THẾ NÀO?

  Như chúng ta đều biết, Phật giáo Tây Tạng chính thống có 4 dòng truyền thừa là Nyingma (Ninh Mã – Mũ Đỏ), Kagyu (Ca Nhĩ Cư), Sakya (Tát Ca) và Gelug (Cách Lỗ- Mũ Vàng). Vào năm 1959, Trung Cộng đã xâm lược Tây Tạng, biến nước này thành một khu tự trị thuộc Trung Quốc. Kể từ đó, theo chân Ngài Dalai Lama, các nhà sư có phẩm hàm cao nhất của các dòng truyền thừa đã vượt biên khỏi Tây Tạng để đến India hay Nepal thiết lập lại cơ sở cho các dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng.

    Chỉ 4 năm sau khi vượt thoát bàn tay của Trung Cộng, vào năm 1963, Ngài Dalai Lama đã tổ chức Religious Conference of the four major traditions of Tibetan Buddhism (Hội Nghị Tôn Giáo của 4 truyền thống Phật Giáo Tây Tạng lần 1) tại Dharamsala. Đây được coi là sinh hoạt tôn giáo quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng kể từ sau cột mốc mất nước năm 1959. Tham dự các kỳ đại hội này luôn luôn có sự hiện diện của Ngài Dalai Lama và các vị chức sắc đứng đầu tất cả các dòng truyền thừa chính thống của Phật giáo Tây Tạng. Sau này, theo sự điều hành của Ngài Dalai Lama và xu hướng chung của Phật giáo Tây Tạng, người ta còn mời luôn cả đại diện của đạo Bon tham dự như là một bộ phận không thể tách rời của tôn giáo và văn hoá Tây Tạng.

Tin về Hội Nghị Tôn Giáo Tây Tạng lần thứ 12 trên trang web chính thức của Chính Phủ Tây Tạng lưu vong
   Cho đến nay, Đại Hội Tôn Giáo Tây Tạng đã tổ chức được 12 lần. Lần gần nhất là vào ngày 18-20/06/2015 tại Surya Hotel ở Dharamsala do Cục Tôn Giáo và Văn Hoá của Chính Phủ Tây Tạng lưu vong tổ chức. Tham dự Hội nghị lần thứ 12 của năm 2015 có các vị lãnh đạo các truyền thừa chính thống như: Ngài Gaden Tripa Rizong Rinpoche (Lãnh đạo dòng truyền thừa Gelug), Ngài Sakya Trizin (lãnh đạo dòng truyền thừa Sakya), Ngài Karmapa (Lãnh đạo dòng truyền thừa Kagyu), Ngài Drukchen Rinpoche đại diện cho Ngài Khenpo Tenzin (lãnh đạo dòng truyền thừa Nyingma) cùng các vị chức sắc cao cấp nhất của Phật giáo Tây Tạng như Ngài Menri Trizin, Ngài Shabdrung Rinpoche, Ngài Taklung Tsetrul Rinpoche.

Thứ Tư, 28 tháng 10, 2015

Ý KIẾN PHẢN HỒI VỀ HIỆN TƯỢNG "PHÁP VƯƠNG"

"pháp vương" Gyalwang Drukpa xuất hiện trên thảm đỏ cùng cựu người mẫu bikini khét tiếng của Playboy- Christie Brinkley- trong một dạ tiệc tại New York năm 2010
_______________________________________
NP: Như trong bài Sơ Kết đã nói, chúng tôi đã tạm thời dừng loạt bài về nhân vật "pháp vương" Gyalwang Drukpa 12. Tuy nhiên, giống như những hòn sỏi ném vào mặt nước hồ, những vòng sóng đồng vọng vẫn còn lan xa sau khi viên sỏi đã khuấy động những vòng sóng đầu tiên.
  Và cũng như chúng tôi đã xác định trong bài Sơ Kết, chúng tôi sẽ cập nhật thông tin mới về nhân vật này khi có tin tức mới xuất hiện.
 Xin giới thiệu đến các bạn hai ý kiến phản hồi về nhân vật này :
__________________________________________

BAN TÔN GIÁO VIỆT NAM: ÔNG LÀ AI?
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
Hỏi tức là đã trả lời.
Câu trả lời rõ ràng rằng: Ban Tôn Giáo Việt Nam (BTG) là một cơ chế chẳng biết gì hay biết nhưng cố tình làm cho “lấy được” về khái niệm và tinh thần cơ bản sinh hoạt tôn giáo.
Trước hết BTG phải là một bộ phận văn hóa có tầm hiểu biết bao quát về tôn giáo.
Nếu BTG có sự hiểu biết căn bản tối thiểu về đạo Phật thì phải thấy được rằng, kinh điển Phật giáo Nguyên thủy Pali tạng khi nhập vào Trung Quốc đã bị luận giải theo quan điểm Thần Đạo dân gian, Khổng và Lão đến MƯỜI LẦN xa hơn nguyên bản.
Khuynh hướng “Trung Quốc hóa” Phật giáo đã phản ánh rõ rệt qua những nỗ lực kéo dài hàng thế kỷ để dựng lên đức Quán Thế Âm và các vị Bồ Tát là những linh thể đang có trú xứ ở Ngũ Đài Sơn Trung Quốc. Đồng thời, phái Tịnh Độ Tông Phát Triển Trung Quốc đã biến Phật giáo thành một hệ thống mê tín dị đoan thoái trào với những hình thức lễ nghi hỗn loạn âm thanh, lòe loẹt màu sắc, bùa chú lễ nghi và thoái trào giáo lý nhà Phật. Tiếc thay, trong quá trình tiếp thu Phật giáo, Việt Nam đã bị Phật giáo Bắc Truyền “đô hộ”, bê nguyên Hán Tạng mà không có sự chắc lọc, tham cứu, dịch thuật cẩn trọng như Phật giáo Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Tích Lan… Hệ quả đáng buồn là cho đến ngày nay, cái “bóng đè” Trung Quốc vẫn còn ngự trị quá nặng nề trên mạng mạch sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam với hình thức văn tự chữ Hán đang còn ngự trị khắp nơi, từ kinh văn trong sách vở cho đến các công trình trùng tu xây dựng chùa viện cập nhật mọi vùng trong nước.
Gần đây, nhóm Tôn Giáo Trung Ương Trung Quốc đã tạo ra một trò ma mãnh đồng bóng của những diễn viên phường tuồng tôn giáo nhằm đánh bật ảnh hưởng đức Đạt Lai Lạt Ma và các vị chân tu Tây Tạng do động cơ chính trị. Đó là hiện tượng quái đản tạo ra một kẻ phường tuồng đội lốt tôn giáo được vẽ vời và xưng tụng bằng cái mỹ danh và biệt hiệu cao quý là “PHÁP VƯƠNG” hay “BẬC TOÀN TRÍ TÔN QUÝ”. Truy nguyên để biết rằng, nhân vật gọi là “Pháp Vương” GYALWANG DRUKPA THỨ 12 HOÀ THƯỢNG, thực chất là một thứ BÙ NHÌN TÔN GIÁO TRUNG QUỐC.
Ngay cả những người sơ cơ đối với Phật giáo cũng hiểu rằng, cách tôn xưng kệch cỡm như “Pháp Vương”; cách trang phục và lễ nghi quan cách ồn áo náo nhiệt, lòe loẹt đến độ khôi hài; và lời “pháp thoại” ngông nghênh của đương sự “Pháp Vương” và phái đoàn phu diễn đã là hoàn toàn KHÔNG NHỮNG PHI PHẬT GIÁO MÀ CÒN PHẢN LẠI LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI về mọi mặt: Từ hình tướng đến giới luật căn bản của nhà Phật.
Thế mà thảm hại, vọng động và vô minh thay, Ban Tôn Giáo Nhà Nước CHXHCN Việt Nam đã cúi đầu, nghiêng mình, vận động quần chúng Phật Tử Việt Nam trong nước đón rước gã hề tôn giáo Trung Hoa một cách rình rang, náo loạn với những hình thức tiếp rước, phô trương, tung hê chưa từng thấy.
Qua cuộc phỏng vấn của báo Giác Ngộ với quý Thầy thuộc hàng giáo phẩm trung ương của GHPGVN như HT. Thich Thiện Tánh, HT. Thích Thiện Tâm, HT. Thích Như Niệm, HT. Danh Lung và TT. Thích Nhật Từ, tất cả đều cho là Ban Tôn Giáo Nhà Nước đã tiên phong chủ động dành cho nhân vật G. Drukpa những danh từ và phương vị tôn xưng quá đáng.

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

SƠ KẾT VỀ NHÂN VẬT "PHÁP VƯƠNG" GYALWANG DRUKPA 12

"pháp vương" Gyalwang Drukpa 12 ở Darjeeling ngày 21/10/2015
Thưa các bạn,
Sau khi loạt bài của Nguyễn Phú Nepal vạch trần chân tướng thật của nhân vật Gyalwang Drukpa 12, người được những kẻ cuồng tín tung hô là "pháp vương", "bậc toàn tri tôn quý", "bậc bảo hộ vùng Hymalaya"... đã được nhiều người tìm đọc và chia sẻ rộng rãi, giáo phái Drukpa đã tạm thời co vòi lại, "pháp vương" Gyalwang Drukpa 12 phải kết thúc sớm chuyến đi kỳ này đến Việt Nam (lịch trước kia dự trù đến 03/11), phải ra đi âm thầm lặng lẽ, không kèn không trống vào ngày 20/10/2015 trở về India, trái ngược với cảnh cờ giong trống mở của kẻ chiến thắng bước đến vùng đất đã được bọn đệ tử mở toang cửa đón tiếp vào những ngày đúng một tháng trước đó.

  Đây là thắng lợi bước đầu của công cuộc vạch trần một âm mưu thâm độc do bọn Đại Hán phương Bắc dày công sắp đặt nhằm nô lệ nước Việt về mặt tôn giáo. Thắng lợi này chủ yếu nhờ vào tinh thần phản kháng đối với tất cả những gì liên quan đến bọn Đại Hán bành trướng, bá quyền luôn tuôn chảy trong mạch máu của mỗi người dân Việt. Nguyễn Phú Nepal Blog và các thân hữu chỉ đóng góp một tiếng nói nhỏ bé nhằm rung lên hồi chuông báo động. Thắng lợi này tuy vậy chưa phải là thắng lợi cuối cùng vì bọn giặc phương Bắc chưa bao giờ từ bỏ dã tâm nô lệ dân tộc Việt về mọi mặt. Chắc chắn chúng và bọn Việt gian sẽ đưa ra tiếp những chiêu thức mới để áp đặt tôn giáo Drukpa lên sự tín ngưỡng của nước Việt bằng mọi giá. Chúng ta phải luôn cảnh giác để có thể nhận chân ra từng âm mưu đó, công bố rộng rãi để cảnh tỉnh mọi người.
  Đến thời điểm này, sau khi các vị giáo phẩm Phật giáo uy tín của Giáo hội PGVN đã lên tiếng về hiện tượng sùng bái "pháp vương" cho thấy rằng đây là một lệch lạc cần chấn chỉnh, thì chúng tôi xin dùng bài tổng kết này để tạm khép lại loạt bài về "pháp vương" Gyalwang Drukpa 12. Chắc chắn rằng chúng tôi sẽ không chần chừ mà không công bố bất kỳ thông tin nào mà chúng tôi có được liên quan đến nhân vật này trong tương lai.
  Trân trọng,
 Nguyễn Phú
__________

SƠ KẾT VỀ "PHÁP VƯƠNG" GYALWANG DRUKPA 12

1/Tôn xưng Gyalwang Drukpa 12 thành "Pháp Vương" là sai trái
   Như chúng tôi đã phân tích trong loạt bài về "pháp vương" Gyalwang Drukpa 12, cũng như các giáo phẩm cao cấp của GHPGVN đã khẳng định, tôn hiệu Pháp Vương chỉ dành cho Đức Phật, cũng như tôn hiệu "Bậc Toàn tri tôn quý". Không có bất cứ một tu sĩ nào còn sống hay đã chết, dù giáo phẩm cao đến mức nào trong bất cứ truyền thống hay dòng tu nào lại được phép tự xưng hay được tôn xưng bằng các tôn hiệu này!
  Gyalwang Drukpa 12 chỉ là một tu sĩ tầm trung, chưa có thành quả gì nổi bật về mặt đạo hạnh, tu tập, công đức; và chỉ là người đứng đầu dòng Drukpa là một dòng rất nhỏ của phái Kagyu (một trong bốn phái chính của Phật giáo Tây Tạng). Xét về cấp bậc, Gyalwang Drukpa 12 phải xếp dưới Ngài Karmapa - người được Phật giáo Tây Tạng hiện tại xem như nhân vật số hai sau Ngài Dalai Lama- đến mấy bậc. Cho nên nếu xét về mặt tôn kính, hành vi tự xưng hay tôn xưng Gyalwang Drukpa 12 thành "Pháp Vương" là một hành vị mạo phạm đến oai nghiêm Đức Phật, là ác nghiệp sẽ mang lại sự tổn thất phước đức của người tự xưng lẫn người tôn xưng, lẫn những người vì nhẹ dạ mà a dua theo hành vi sai trái này.
  Đã có tiếng nói từ nhóm nội gian nối giáo cho giáo phái Drukpa tác oai tác quái ở Việt Nam rằng: Gyalwang Drukpa không biết tiếng Việt, chưa bao giờ tự xưng là "pháp vương", đây chỉ là "lỗi của thằng đánh máy" khi dịch sang tiếng Việt. Xin trả lời thẳng thắn rằng: Gyalwang Drukpa 12 đã đến Việt Nam 7 lần trong 5 năm, không phải là lần đầu tiên, và giáo phái Drukpa đã sử dụng tôn hiệu đó ngay từ lần đầu tiên Gyalwang Drukpa 12 đến Việt Nam, giáo phái Drukpa Việt Nam đã rất phát triển với hàng trăm ngàn tín đồ, có cả trang web riêng; như thế không thể nói Gyalwang Drukpa 12 không biết gì về việc làm của thuộc hạ mình. Suốt 5 năm qua họ đã mặc nhiên tôn vinh nhân vật này như thế cho đến khi chúng tôi lên tiếng thì mới chống cãi yếu ớt, đổ vấy trách nhiệm lên đầu người phiên dịch. Vả chăng sự bào chữa này là mâu thuẫn khi họ đã hào hứng khoe rằng sự hoành tráng của các buổi đón tiếp, hành lễ của Gyalwang Drukpa 12 tại Việt Nam đều được tổ chức chặt chẽ, chu đáo; thậm chí xấc xược đề nghị Phật giáo Việt Nam hãy học hỏi công tác tổ chức, vận động quần chúng của họ.
Cho dù thế nào đi nữa thì người đứng đầu một tổ chức phải chịu trách nhiệm tối cao về những sai trái của tổ chức của mình, của những việc làm của các thuộc hạ của mình.
Gyalwang Drukpa 12 không thể thoái thác trách nhiệm trong việc tiếm xưng tôn hiệu "Pháp Vương" của Đức Phật!

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

GIÁO HỘI PGVN KHÔNG CHẤP NHẬN DANH XƯNG "PHÁP VƯƠNG"

NP: Tuần báo Giác Ngộ số ra ngày 16/10/2015 đã đăng tải ý kiến của các vị Hoà Thượng giáo phẩm cao cấp phụ trách các vấn đề tăng sự, quan hệ quốc tế, về vấn đề "Pháp Vương" Gyalwang Drukpa 12. Đây là ý kiến của các giáo phẩm cao cấp thuộc Phật giáo miền Nam cho thấy sự không đồng tình với sự dung dưỡng quá đáng của Phật giáo miền Bắc đối với cái gọi là giáo phái Drukpa xấc xược, vào nhà không nể mặt chủ nhà. Tựu trung các ý kiến của các vị Hoà Thương đại diện cho Phật giáo miền Nam trong Giáo Hội có thể gói gọn như sau:
1/ Danh xưng "Pháp Vương" chỉ dành cho Đức Phật, các vị tu sĩ vẫn còn đang tu tập và có hiểu biết thì không được tự xưng cũng như không nên nhận danh xưng này; kể cả khi người khác tôn xưng mình như thế. Cũng như thế đối với danh xưng "bậc Toàn tri, tôn quý".
2/Giáo phái Drukpa chỉ là một chi phái nhỏ của một trong 4 trường phái Phật giáo Tây Tạng, Gyalwang Drukpa 12 chỉ là một tu sĩ tầm trung tại tiểu bang Ladakh-India chưa từng được mời tham dự các tổ chức, hội nghị Phật giáo quốc tế có tầm vóc.
3/Việc cúng dường 10 tỷ cho Giáo hội thì nếu lễ vật cúng dường của người khác thì nến mời thí chủ ấy đích thân đến cúng dường (nghĩa là Gyalwang Drukpa 12 không có tư cách cúng dường 10 tỷ nếu không phải là tiền của ông ta).
4/Quốc có quốc pháp, gia có gia quy. Gyalwang Drukpa 12 vào Việt Nam hoằng pháp thì phải theo luật lệ của Phật giáo Việt Nam đã quy định trong Hiến Chương Phật giáo Việt Nam; chứ không được càn rỡ bất chấp tất cả.
  Như vậy tất cả các vấn đề mà Nguyễn Phú đã nêu ra trong loạt bài về "Pháp Vương" đều trùng với quan điểm của các giáo phẩm cao cấp trong Giáo Hội PGVN.
 Xin mời các bạn xem bản scan nguyên vẹn bài báo "Về tôn xưng "Pháp Vương"" trên báo Giác Ngộ 16/10/2015 mà tác giả vừa nhận được từ một đạo hữu ở Việt Nam (Bản online trên Internet của Giác Ngộ online chỉ trích đăng có 2 ý kiến).
  Trân trọng!
________________________


Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

"PHÁP VƯƠNG" CÓ PHẢI LÀ PHÁP VƯƠNG




Trong vòng mấy năm gần đây, báo chí Việt Nam (nhất là VNEXPRESS) luôn luôn lớn giọng xưng tụng, gọi Gyalwang Drukpa đời thứ 12 của dòng Drukpa là “Pháp Vương” và một người đi cùng ông ta là“Nhiếp Chính Vương” y chang như một triều đình Trung Quốc. Có thật danh hiệu tiếng Tạng của hai người này đúng chính xác khi dịch ra tiếng Việt là “Pháp Vương” và “Nhiếp Chính Vương”?
     Xin trả lời ngắn gọn : HOÀN TOÀN KHÔNG ĐÚNG!
  

 _____________________________________________________

   PHẬT GIÁO TÂY TẠNG CŨNG NHƯ PHẬT GIÁO CỦA BẤT KỲ NƯỚC NÀO TRÊN THẾ  GIỚI KHÔNG BAO GIỜ XƯNG TỤNG BẤT KỲ AI NGOÀI  ĐỨC PHẬT THÍCH CA LÀ PHÁP VƯƠNG.

Pháp Vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất”
-Đấng Pháp Vương Vô Thượng
Ba Cõi chẳng ai bằng
                                 (Kệ Tán Thán Phật mở đầu cho bất kỳ buổi đọc kinh 
                                         hay pháp hội nào của Phật giáo Đại thừa)

     Danh hiệu PHÁP VƯƠNG xuất xứ từ chữ DHARMA- RAJA của Sanskrit hay DHAMMA-RAJA của Pali với Dharma/Dhamma nghĩa là Pháp (Dharma là một khái niệm chỉ lối sống đúng đắn-đạo đức của văn hoá Ấn Độ, trong đạo Phật có thể hiểu nôm na là Pháp [đạo Phật]- một trong Tam Bảo Phật -Pháp -Tăng).

     Phật Giáo về giản lược có thể phân ra hai nhánh (thừa) là: Tiểu Thừa (Theravada, ngày nay thường gọi là Nguyên Thuỷ, là Phật giáo ở các nước Sri Lanka, Myanmar, Thailand, Cambodia) và Đại Thừa (Mahayana, phổ biến ở India, China, Japan, Tibet, Vietnam, Korea, Taiwan, Mongolia). Trong nhánh Đại Thừa lại chia ra nhiều tông phái, nhánh nhỏ nữa. Phật Giáo Tây Tạng là một nhánh của Đại Thừa, thường được gọi là Kim Cương Thừa – Vajrayana hay Mật Thừa – Tantrayana. Tuy chia ra nhiều nhánh nhiều tông, nhưng tất cả các tông phái đều thống nhất như sau: Người đầu tiên truyền bá đạo Phật (Lăn bánh xe Pháp) được xưng tụng là Chuyển Luân Pháp Vương chính là Đức Phật Thích Ca (Sakyamuni Buddha). Chỉ duy nhất một mình Đức Phật Thích Ca được toàn thể thế giới Phật giáo xưng tụng là Pháp Vương – Dharmaraja. Phật giáo Tây tạng không có bất kỳ danh hiệu nào tương đương Dharmaraja-Pháp Vương, cũng không xưng tụng bất kỳ ai là Pháp Vương vì đấy là DANH HIỆU CỦA PHẬT. Kể cả Ngài Dalai Lama cũng chỉ là hoá thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, chưa phải là quả vị Phật.

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

TẠM BIỆT NEPAL - CHÀO MỪNG ĐẾN INDIA

Kính mời  xem blog mới: GIẢI MÃ INDIA

www. giaimaindia.blogspot.com

NAMASKAR INDIA!

Kính chào các bạn thân mến!
India là một vùng đất mà tôi đã mơ về từ khi còn ấu thơ. Có lẽ ám ảnh bởi các bộ truyện tranh về cuộc đời Đức Phật Sakya. Có lẽ những mạch ngầm của văn minh India từ thời cổ đại thấm đẫm Phù Nam, Champa, Đại Việt giờ bắt đầu nảy mầm đón nắng. Hoặc cũng có lẽ , nói theo thuyết Samsara (luân hồi), có một linh hồn người Ấn đã phiêu bạt đến trời Nam.
Tại Buddhist Cave-Kanheri, 
Sanjay Gandhi National Park, Mumbai, 

Tháng 9/2014
 Ám ảnh ấy ngày càng đậm nét sau khi tôi được đọc " Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam" của Bình Nguyên Lộc. Lớn dần lên trong tôi một sự thôi thúc tìm về nguồn cội. Cơ duyên đã đưa đẩy để từ năm 2005 tôi đến được Nepal, một vùng đất ảnh hưởng sâu sắc văn hoá India. Chín năm ở Nepal đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản để có thể dấn bước trên con đường mà tôi đã chọn như là định mệnh của đời mình: tìm hiểu về văn hoá India.

  Tôi đã bắt đầu nghiên cứu về India song song với việc nghiên cứu Nepal từ những năm đầu tiên ở Tiểu lục địa India. Tuy vậy, mãi đến cuối năm 2011, khi tham dự Hội Nghị Phật Giáo Toàn Cầu lần 1 ở New Delhi tôi mới chính thức đi những bước đầu tiên vào việc nghiên cứu India. Chuyến đi thực tế kéo dài hơn tháng sau khi kết thúc Hội Nghị qua vùng bờ biển phía Đông và vùng Trung Ấn thăm viếng các di tích Sanchi, Kalinga, Khajuraho, Varanasi,Bodh Gaya... các tiểu bang Delhi, Uttar Pradesh, Bihar, West Bengal, Orissa, Madya Pradesh... đã làm cho tôi càng thêm choáng ngợp trước một nền văn minh kỳ vĩ. Kể từ đó, mỗi năm tôi đều có ít nhất hai lần đến India, mỗi lần ba bốn tuần kéo dài có khi đến gần hai tháng, để nghiên cứu thực tế India.

  Tôi đã rời Nepal vào quý đầu tiên của năm 2014, hai tháng trước khi trận động đất kinh hoàng xảy ra. Đó không phải là sự chấm dứt việc nghiên cứu của tôi mà chính là bắt đầu một giai đoạn mới: tập trung cật lực cho chủ đề India. 
 Blog Nguyễn Phú Nepal vẫn sẽ tồn tại và cập nhật dù không thường xuyên như trước vì sức người có hạn tác giả phải tập trung sức lực cho hành trình mới là India.
  Mong các bạn ủng hộ Giải mã India như đã từng ủng hộ Nguyễn Phú Nepal.
   Namaste!

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Lịch sử hình thành của miền nam Việt Nam

Nam_tien-2
Võ Thanh Liêm
Vương quốc cổ Phù-Nam 
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2559



NHÂN DỊP PHẬT ĐẢN 2559, XIN KÍNH CHÚC TẤT CẢ QUÝ ĐẠO HỮU ĐƯỢC TINH TẤN TRONG VIỆC TU HỌC!

"Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa" 
"Honour to the Blessed One, the Exalted One, the fully Enlightened One."
__________

Xin kính tặng Quý Đạo Hữu một số hình tượng về Phật Sakya đản sinh tại Lumbini.


Tượng Phật đản sinh có thần nhất (theo cảm nhận của tác giả). Tượng đặt trong sân vườn chùa Quốc Gia Nepal ở Lumbini ngay bên cạnh Sacred Garden.



Đôi mắt có hồn , ám ảnh tâm trí tác giả kể từ lần gặp đầu tiên. Dường như Ngài đang xót thương cho Nhân Loại đang trầm luân trong Bể Khổ.


Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.
  Hai vợ chồng Charumati khi lớn tuổi đã cùng nhau ước nguyện xây dựng mỗi người một ngôi chùa Phật ở Deopatan. Ông hoàng Kirat mất trước, chưa kịp hoàn thành tâm nguyện. Riêng Charumati thì hoàn thành được ngôi chùa ngày nay gọi là Charumati Vihara theo Sanskrit , hoặc theo tiếng Newar là Charumari bahil, thường gọi tắt là Chabahil. Đây chính là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Thung lũng Kathmandu. Cộng đồng họ Sakya của Đức Phật Sakya di tản từ Kapilvastu lên Kathmandu Valley 2500 năm trước đã định cư ở khu vực Chabahil này và là cộng đồng Sakya lâu đời nhất của Thung lũng Kathmandu.

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

LẠM BÀN VỀ “CHÚ” VÀ “THẦN CHÚ”

Bài quá hay. Cám ơn tác giả Phạm Lưu Vũ và nhà văn Nguyễn Trọng Tạo, xin phép hai bác được đưa bài này về đây để em lưu làm tài liệu. Kính!
NP 
Link: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/11/16/lam-ban-ve-chu-va-than-chu/
PHẠM LƯU VŨ
Nói đến “chú” (hay “thần chú”), thường dễ bị quy chụp ngay là mê tín dị đoan. Ấy là khi chưa hiểu thực chất của “chú” là gì? kể cả người đọc “chú” lẫn người nghe “chú”, rằng “chú” có từ khi nào?,  ai là người lập ra “chú”?, hiệu nghiệm của nó ra sao?, khi nào có hiệu nghiệm?, tại sao lại có hiệu nghiệm?, v,v… Chưa kể các loại “thầy, bà…” xưa nay thường sử dụng “chú” vào những mục đích không mấy lương thiện của họ, điều này càng làm cho “chú” dễ bị hiểu lầm. 
Lục tự thần chú "Om Mani Padme Hum" của Quán Thế Âm Bồ Tát

Nay bàn về “chú”, trước hết xin hãy gạt những thứ đó sang bên cạnh cái đã.
Trong 6 nguyên tắc biên dịnh Kinh Phật từ Phạn ngữ sang Hán ngữ do pháp sư Huyền Trang đưa ra, có 1 nguyên tắc là chỉ phiên âm mà không dịch khi gặp các trường hợp sau:
1- Những từ có quá nhiều nghĩa lý thâm sâu: ví dụ Bát Nhã, Ba La Mật, Tam Muội…
2- Những câu “chú”, bài “chú”.
Nghĩa là “chú” chỉ được phép phiên âm, mà không dịch. Kể cả những đoạn “chú” nằm trong kinh văn, thì khi đọc tụng, phần kinh văn có thể tụng lời dịch, còn “chú” thì (bắt buộc) phải tụng theo phiên âm.
Đời sau nhiều người vẫn tìm cách dịch nghĩa các câu “chú” hoặc bài “chú” đó. Song cũng chỉ là dịch để biết, biết (1 phần rất nhỏ) nghĩa lý thế thôi, chứ nếu đọc hoặc tụng theo lời dịch thì dứt khoát không có tác dụng. “Chú” (như sau đây sẽ thấy), là một dạng “ngôn ngữ” đã ra ngoài nghĩa lý thông thường vậy.
Xin “mở ngoặc” một tí: Trong cuộc đời đôi khi cũng gặp những trường hợp tương tự như “chú”. Ví dụ những “mật khẩu” dùng trong quân đội chẳng hạn. Đó là những khẩu lệnh của 1 phía nhằm “quy ước” sẽ thực hiện 1 hành động nào đó mà phía bên kia dẫu có nghe thấy cũng không tài nào hiểu được. Đừng tìm cách “giải nghĩa (đen)” của cái “mật khẩu” ấy làm gì, việc đó không những vô nghĩa, thậm chí có thể dẫn đến… mất mạng như chơi (trường hợp Dương Tu giải thích mật khẩu “kê cân” của Tào Tháo trong truyện Tam Quốc là 1 ví dụ). Trường hợp này và những trường hợp tương tự cũng có thể gọi là 1 dạng “chú”, đó là “chú” của phàm trần (gọi là “phàm chú”).
Vậy “chú” là gì?
“Chú” (từ đây có nghĩa là “thần chú” để phân biệt với “phàm chú”), có thể (tạm) hiểu là những MẬT NGỮ do một bậc giác ngộ hoặc một bậc đắc đạo nào đó đưa ra nhằm “chỉ thị” hoặc “ra lệnh” cho những đồ chúng, quyến thuộc… của vị đó ở những cõi giới khác cõi phàm phải thực hiện một công việc gì đó, một “quyền năng” nào đó đã có “nguyện” (hay giao ước) từ trước.

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

QUAN ĐIỂM CỦA TÔI VỀ TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG


  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU DẠY NGƯỜI TA LÀM ĐIỀU TỐT, LÀM LÀNH TRÁNH DỮ, RÈN LUYỆN THÂN TÂM.
  • TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỀU BÌNH ĐẲNG NHƯ NHAU.
  • TÔI KHÔNG CUỒNG TÍN CŨNG NHƯ KHÔNG HẠ THẤP HAY TÔN CAO BẤT KỲ MỘT TÔN GIÁO HAY TÍN NGƯỠNG NÀO.
  • NẾU CÓ VIẾT BÀI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG, PHONG TỤC, TẬP QUÁN Ở MỌI NƠI TÔI CÓ DỊP ĐẶT CHÂN ĐẾN TÔI SẼ CỐ GẮNG TƯỜNG THUẬT NHỮNG GÌ TÔI THẤY ĐƯỢC, BIẾT ĐƯỢC, HIỂU ĐƯỢC; TUYỆT ĐỐI TRÁNH BÌNH LUẬN (NO COMMENT).

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

HỆ THỐNG THẦN LINH ẤN ĐỘ GIẢN DỊ HÓA



 Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

 .........................


   Ấn Độ đầy bí ẩn và huyền hoặc có thể làm choáng ngợp bất cứ ai mới tiếp xúc với nền văn minh thâm hậu này. Một trong những vấn đề làm rối nhiều “người ngoài” chưa quen thuộc với văn hóa Ấn nhất chính là hệ thống thần linh Hindu.
       Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa, nếu không muốn nói là sâu đậm hơn. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

*****************

THẦN THÁNH CŨNG BIẾT… CƯỜI

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN: THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY BÀI 3
 

THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

Một đặc điểm của người Ấn (hay người thuộc văn minh Ấn) là tính hài hước, hóm hỉnh. Ngay cả các vị thần cũng không sống ngoài không gian hóm hỉnh đầy thông tuệ của người Ấn. Có thể nói các vị thần Hindu rất “người”!

1/ INDRA-THỦ LĨNH CÁC VỊ THẦN-BỊ MANG NGHÌN “CON MẮT”

   Thủ lĩnh các vị thần trong hệ thống Hindu là Indra –Thần Mưa, Hán gọi là Đế Thích. Cần nhớ rõ Indra chỉ là thủ lĩnh của các Deva (bán thần) chỉ cai trị cung Trời (Svargaloka- heaven); thấp hơn God (Thần), và ba vị thần tối cao Trinity là các God cai trị cả vũ trụ: Shiva, Vishnu và Brahman.
  Indra vốn rất ham thích sắc đẹp phụ nữ. Một hôm, cầm lòng không đặng nên Indra đã quyến rũ một phụ nữ xinh đẹp đã có chồng. Chồng của phụ nữ này là một rishi (hành giả Hindu) tên là Bhrigu. Nổi cơn ghen vì bị cắm sừng, vị rishi này bèn rủa Indra rằng: “ Vì ông bị ám ảnh bởi thân thể phụ nữ ông sẽ mang một ngàn “âm hộ” trên khắp cơ thể ông!”

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA


THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

LỜI DẪN: xin trích dịch lại đây vài đoạn trong bản thảo cuốn sách mà mình sắp xuất bản. Sách viết bằng tiếng Anh nên phải dịch lại he he... vì thế giọng văn chắc chắn là không thuần Việt rồi, mong các bạn thông cảm!

Tạm đặt tên cho đoạn này: YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA
 (trong sách đây là chương Ba, không có tên)

CHƯƠNG BA

 
Raj đưa cho Don mảnh giấy mà ông vừa vẽ trên đó, “Cậu có biết cái này là cái gì không?”
Don nhìn lướt qua tờ giấy, trên đó có một hình vẽ ngôi sao sáu cánh
 “Đừng nói với tôi đó là Ngôi sao David mà Dan Brown đã đề cập trong quyển Mật mã Da Vinci nha…” Don cười. Nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm túc của Raj, anh vội vàng nói, “Xin lỗi! Tôi nói đùa…”
  Raj gật đầu, “Không sao. Đấy thực sự là Ngôi sao David, biểu tượng của Do thái giáo và cộng đồng Do thái. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng bởi đạo Hồi, Thiên chúa giáo và các tôn giáo Đông phương khác. Trong đạo Hồi, nó được gọi là Khatem Sulayman-Con dấu của Solomon và Najmat Dawuud-Ngôi sao David. Rất nhiều thánh đường Hồi giáo trang trí ngôi sao sáu cánh này. Anh cũng đã biết rằng, Thiên chúa giáo cũng thờ phụng ngôi sao này.”
   Ông hoàng Nepal ngừng lại, nhấp một ngụm trà xanh, đoạn tiếp tục với một giọng nói chậm rãi, rõ ràng, “Tuy nhiên, ở Lục địa India, trước khi trở thành ngôi sao sáu cánh, biểu tượng này được sắp xếp như là hai tam giác chạm vào nhau như thế này…” Raj vẽ một hình khác:  “”.



  “Biểu tượng này được tìm thấy trên những lá bùa ở Mohenjo-daro trong cuộc khai quật năm 1920. Trên thực tế, anh đã trông thấy nó trong hình thức thực nếu anh đã từng thăm viếng một ngôi đền Shiva.” Raj mỉm cười.
   “Tôi…” Don ngơ ngác nhìn ông già.
“Linga và Jalari” Raj nhắc.
“Jalari? Bác muốn nói cái bầu đựng nước phía trên mỗi linga?”

“Chính xác! Chúng – Linga và Jalari- chính là hình thức nguyên thủy của các tam giác ngược chiều nhau. Trong Mật tông, chúng chuyển hóa thành muôn hình vạn trạng các sự phối hợp giữa hai tam giác ngược chiều nhau. Như vậy, hơn ba ngàn năm trước, nền văn minh của Thung lũng Indus đã tôn thờ hai tam giác ngược chiều nhau.”

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

VỀ VỚI NGƯỜI THARU

NGÀY 1: dự trù mãi đến khi kết thúc chuyến đi mới post bài vì phải đi vào các làng Tharu hẻo lánh, không có net. Nhưng đi được 400km đến Butwal thì hết xăng nên phải ở lại đây một đêm. May KS có net nên tranh thủ xài ké post vài hình đã chụp bữa nay.

Kế hoạch là khởi hành sớm nhưng hôm nay các đảng chính trị người Madeshi bandha nên mãi tới 8 giờ mới xuất phát được. Kinh nghiệm ở các nước Nam Á là khi có bandha các bạn đừng nên ra đường sớm dù bọn tổ chức nào cũng nói là cho phép xe của phóng viên, khách du lịch nước ngoài, cấp cứu lưu thông. Đừng tin! Sáng nay một chiếc xe của đài truyền hình đi làm tin buổi sáng đã bị tấn công. Vì thế mà dù xe mình có dán "bùa" PRESS phía trước mình vẫn phải chờ vài tiếng đồng hồ cho mấy cái đầu của bọn tiểu yêu nguội bớt.

Chúa nhật này (10/03/2013) là đại lễ hội quan trọng nhất trong năm của Shaivism (một tông của Hindu giáo tôn thờ thần Shiva; tông còn lại là Vaishnavism thờ thần Vishnu). Từ mấy ngày nay, các SADHU (ông đạo Hindu) từ khắp nơi ở Nepal và India lũ lượt kéo về Pashupatinath-ngôi đền thiêng nhất của Hindu ở Kathmandu để tham dự lễ hội này.

Mình thích cái con gấu bông xinh xắn sau lưng tay cua-rơ này!

Mùa này là mùa đẹp để du lịch ở Nepal và Bắc India. Trời mát và không còn sương mù che phủ cả ngày như 2 tháng trước. Đôi vợ chồng người Pháp này đang đạp xe từ Kathmandu về Lumbini

Cơ ngơi của Binod Kumar Chaudary, tỷ phú đầu tiên của Nepal vừa mới lọt vào danh sách của Forbes năm nay. Chaudary là họ phổ thông của người Tharu. Cụm tượng hoành tráng bằng đồng này mô tả tích thần Krishna đánh xe chở Arjun ra trận, một tích trong sử thi Mahabharata của India. Tộc người nghèo nhất Nepal sản sinh ra người giàu nhất Nepal... hi hi có khối chuyện để chém gió đây...

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013

CẬP NHẬT: NHÀ SƯ TÂY TẠNG TỰ THIÊU Ở KATHMANDU




      Nhà sư Tây Tạng tự thiêu tại Bảo tháp Boudhanath lúc 8 giờ sáng hôm qua đã mất chỉ vài giờ sau khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu do bỏng đến 96%.

   
     Nhà sư tuổi khoảng 20 đã được nhận diện là Thundup Dopchen đi từ Ấn Độ vào Nepal bằng đường bộ. Ông là người Tây Tạng thứ 100 đã tự thiêu để phản đối Trung Cộng chiếm đóng Tây Tạng vào đúng ngày đánh dấu 100 năm Tuyên Bố Độc Lập của Tây Tạng bởi Dalai Lama thứ 13 (13/02/1913).