Hiển thị các bài đăng có nhãn India. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn India. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2019

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


  SỰ THỜ PHƯỢNG THẦN TÀI DZAMBALA 
TRONG PHẬT GIÁO
(Triết lý về sự giàu có của PHẬT GIÁO Tây Tạng)
TƯỢNG DZAMBALA THUỘC GALLERY "TƯỢNG VÀNG THÍCH CA"
Thuở xưa, khu vực cội bồ đề thiêng, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo vẫn còn hoang vắng, chuyện kể rằng Đại sư Atisha đang tản bộ trong Bồ-đề-đạo-tràng thì gặp một ông lão sắp chết đói. Ngài Atisha rất buồn cho thảm cảnh  của ông lão; không có chút thức ăn nào để bố thí cho ông lão, nên Ngài đã cắt thịt của mình để cho ông lão.
“Làm sao tôi có thể ăn thịt của một vị tăng?” Ông lão từ chối ăn thịt Ngài.
 Đại sư Atisha nằm xuống, cảm thấy một nỗi buồn và bất lực thì  một luồng sáng trắng đột nhiên xuất hiện trước ngài. Đó là Đức Quán Thế Âm nghìn tay, Ngài nói với Atisha, “Ta sẽ hóa thân thành Dzambala, một vị Phật của sự giàu có để cứu khổ chúng sinh. Ta sẽ làm dịu bớt sự nghèo khổ của họ để họ sẽ không bị phân tâm khỏi sự thực hành lòng từ.”
Ai cũng muốn có tiền! Như mọi người biết, khi một ai đó giàu, thật dễ dàng để không ích kỷ và phát triển lòng bao dung. Bởi vậy, mục đích sùng mộ hay hành trì theo Dzambala là để loại trừ những nỗi bất an, lo lắng về tiền bạc để không bị phân tâm bởi sự nghèo khổ và thiếu thốn về tài chính mà tập trung cho sự trưởng dưỡng lòng Từ Tâm, Thanh tịnh Thân Tâm và hành trì tu tập.
***********
HÌNH TƯỢNG:


https://www.facebook.com/nguyenphunepal/

Màu da vàng kim của Dzambala tượng trưng sự thịnh vượng, tăng trưởng và phát triển: trong ngắn hạn, Ngài có thể mang đến cho chúng ta của cải vật chất và giúp đỡ chúng ta khỏi nghèo túng, nhưng quan trọng hơn, pháp hành trì  hay lòng lòng sùng mộ Ngài có thể mang cho chúng ta sự giàu có tâm linh và phát triển cá nhân để trở thành người hoàn thiện hơn.

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019

VUI HỘI HOLI (1) - GIỚI THIỆU LỄ HỘI SẮC MÀU ĐÓN XUÂN


Ở Bắc Ấn Độ lễ hội lâu đời, phổ biến và ấn tượng nhất hàng năm chính là Holi. Lễ hội này thường được người ta gọi bằng cái tên “Lễ hội sắc màu”, năm nay bắt đầu từ ngày 20/03 kéo dài đến ngày 22/03.
  

Photo Credit: Holi Festival of Colors | visitrenotahoe.com



Người ta cho rằng lễ hội Holi này xuất xứ từ vùng Mathura, nay thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (Bang Hướng Bắc) của Ấn Độ. Đây chính là quê hương của Thần Krishna, vị thần phổ biến bậc nhất đối với thế giới Hindu Bắc Ấn. Thần Krishna được thờ phụng như là hoá thân của Thần Tối cao Vishnu và là vị thần của lòng từ và tình yêu. 

bán bột màu chơi hội Holi


Xuất xứ tên gọi của lễ hội Holi là từ truyền thuyết Thần Vishnu hiển lộ thần thông bảo vệ tín đồ của mình khỏi bị quỷ dữ làm hại và thiêu cháy nữ quỷ Holika. Còn nguồn gốc của phong tục nổi tiếng “xịt nước và bôi màu vào nhau” là từ những trò rắn mắt của chàng thanh niên Krishna khi chòng ghẹo nàng Radha, người sau này trở thành vợ của Krishna. Vốn dĩ Krishna có làn da sẫm màu nên trong lễ hội chàng đã dùng màu và nước màu tung vào người Radha để nàng có cùng “màu da” với mình. Về mặt thời tiết trong năm, ngày diễn ra lễ hội Holi chính là ngày Xuân Phân (năm nay 2019 là 20/03) đánh dấu bắt đầu mùa xuân, chấm dứt những ngày mùa Đông lạnh lẽo nơi xứ Ấn.

Krishna và Radha vui hội Holi

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

TIẾNG HINDI (1)


Hindi là ngôn ngữ trực hệ của Sanskrit và các thổ ngữ của văn minh sông Hằng (Ganges Civilization). Tại Ấn Độ, hơn 180 triệu người Ấn xem Hindi là tiếng mẹ đẻ, 300 triệu người xem Hindi là ngôn ngữ thứ hai. Ngoài Ấn Độ, tiếng Hindi được sử dụng  bởi hàng chục triệu người ở Nepal, Nam phi, Mỹ, Đức, Uganda, Mauritius…



Hindi phát xuất từ nhóm thổ ngữ Apabhransa vốn bị các học giả Sanskrit cổ đại xem là “ngôn ngữ không ngữ pháp” (non-grammatical language) ở vùng dọc theo sông Hằng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13, vốn là khu vực văn minh nhất tiểu lục địa Ấn Độ. Đây có thể coi như thứ tiếng của giới bình dân , đối lập với Sanskrit, vốn được coi là ngôn ngữ của Thần Linh và chỉ giai cấp Brahmin (Bà-la-môn) được phép sử dụng.

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

TRANH DÂN GIAN MITHILA - TÂM HỒN THƠ MỘNG (3)

Quân đội Hoàng Gia Nepal tuần tiễu trong thời gian nội chiến

Nepal vào những năm cuối cuộc nội chiến đầy những hàng rào kẽm gai, những đồn bót chất đầy bao cát, những lính tráng mặc đồ rằn ri tay lăm lăm súng khắp mọi nơi... những hình ảnh đánh thức ký ức thơ dại của tôi về miền Nam vào thời gian cuối của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Lúc tôi sống ở vùng Lumbini  vào những tháng cuối cùng của năm 2005, đêm đêm vẫn nghe vọng về những tiếng bom nổ ì ùm, những tiếng súng mơ hồ. Tuy nhiên, Khu Lumbini – nơi đản sinh của Đức Phật đã may mắn được các bên tham chiến ngầm thoả thuận đặt ra khỏi những trận đánh giành dân chiếm đất của tất cả các bên. Tôi sống ở Lumbini thì đã may mắn sống trong một “khu trung lập” giữa một vương quốc đang chìm vào những ngày bạo liệt nhất cuối cuộc chiến. Ngồi phía sau chiếc xe bò lọc cọc đi trên con đường làng, nhìn lại về hướng chiếc cầu vẫn còn đang toả khói đen trong bóng hoàng hôn sẫm máu, tôi chợt rùng mình. Nếu chiếc xe bus mà chúng tôi đi không dừng lại để rước thêm khách ở ngã tư vành đai hoặc thiếu vắng đi vài trạm kiểm soát dọc đường có lẽ chúng tôi đã là nạn nhân của vụ đánh bom của quân du kích Maoist. Đây là lần gần nhất mà Thần Chiến Tranh ở Nepal đã phả hơi thở giá lạnh vào tôi.
   Hôm ấy, Cỗ máy thời gian đã vứt tôi ngược lại 30 năm vào thời điểm cộng sản đang chiếm lấy toàn bộ miền Nam giống như quân cộng sản Maoist đang chiếm lấy toàn bộ phần còn lại của Nepal. Dĩ nhiên thời điểm đó tôi không hề nhận ra điều ấy mà mãi nhiều năm sau này mới lờ mờ nhận thấy chuyện kỳ lạ này. Sau một thời gian ngắn nữa, Cỗ máy thời gian lại sẽ tái hiện cho tôi cái cảnh cộng sản dẫn dắt quần chúng bao vây lấy hoàng cung, lật đổ nhà vua của vương triều đã tồn tại hơn hai trăm năm mươi năm giống như cộng sản Việt Nam đã làm với triều đình Nguyễn ở Huế năm 1945. Nhưng đó là chuyện về sau, khi vương quốc Hindu cuối cùng trên Trái Đất bị cộng sản Maoist xoá bỏ một cách bạo liệt. Còn ngay lúc này đây, Cỗ máy thời gian đang phóng chiếu cho tôi những ảo ảnh của một vương quốc vô cùng nổi tiếng hơn hai ngàn năm trước.

Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2018

TRANH DÂN GIAN MITHILA – TÂM HỒN THƠ MỘNG (1)

“I try to apply colors like words that shape poems, like notes that shape music. ”

- Joan Miro

“Tôi cố gắng ghép các màu sắc [vào bức tranh] giống như các từ tạo nên bài thơ, giống như các nốt tạo nên bản nhạc” Joan Miro- Danh hoạ Tây Ban Nha thế kỷ 20
____________
 Hội hoạ là môn nghệ thuật vô thanh.
Thế nhưng, với những danh hoạ như Joan Miro hay Picasso, tranh vẽ của họ lại rộn vang âm thanh bởi những sắc màu mang đầy “tiếng” của cuộc đời.
Ở Vương quốc Mithila ngày xưa, ngày nay bị chia đôi bởi biên giới hai nước Nepal và Ấn Độ, có một dòng nghệ thuật cổ xưa lại cất tiếng ca hát, mộng mơ như thế trước cả Joan Miro và Picasso nhiều thiên niên kỷ. Dòng tranh dân gian Mithila hay còn gọi là Madhubani, lấy theo tên một làng ngày ngay nằm ở bang Bihar thuộc India.
Ghép từ nhiều trích đoạn của các tranh Mithila
  Ngắm nhìn tranh Mithila, người xem chừng như có thể thấy được những vũ điệu mê hồn của màu và sắc, có thể nghe được tiếng nhạc lạc quan yêu đời của con người và thiên nhiên Ấn Độ và có thể cảm được cái chính xác nhất là “Tâm Hồn Ấn Độ” - Soul of India, mà không một dòng tranh nào của Ấn Độ có thể làm được.
  Ngây thơ và hồn nhiên.
  Tranh Mithila phô bày được cái “bản thể nguyên sơ” của tâm hồn con người. Phô bày được khoảnh khắc đầu tiên con người xúc động trước Cái Đẹp và tìm cách lưu nó lại để thưởng thức.

  Tranh Mithila lại còn phô bày được con đường tiến hoá của nghệ thuật đi từ giản đơn đến phức tạp rồi cuối cùng giản dị hoá trở về với chính mình như thế giới trong đôi mắt trẻ thơ; chỉ còn lại những vần thơ đầy màu sắc lay động cảm xúc của mọi trái tim  yêu Cái Đẹp.
Tôi chạm trán lần đầu với nghệ thuật hội hoạ Mithila một cách rất bất ngờ. Cuối tháng 11 năm 2006, sau khi đã ở Nepal được hơn một năm, tôi mới hội đủ cơ duyên để làm một chuyến phiêu lưu nho nhỏ xuống vùng Nam Nepal giáp giới Ấn Độ. Hồi ấy, cuộc nội chiến Nepal đang đi vào giai đoạn kết thúc và cũng giống như cuối thời gian loạn lạc ở bất cứ nơi đâu chuyện mất trật tự trị an là một hệ luỵ đi kèm cho các cuộc “cách mạng bạo lực”. Huống chi, đó lại là vùng biên giới luôn luôn mở cho bất kỳ người Ấn Độ và Nepal nào qua lại tự do, lại là vùng quân đội Maoist Nepal với sự hỗ trợ của Maoist Ấn Độ hoạt động mạnh mẽ nhất.
 Vì sao tôi “phải” tìm đến tận nơi ấy?

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

ĐẠO SIKH - PHẦN 2

     Vị Guru cuối cùng Gobind Singh đã thiết lập giới luật “Khalsa” làm căn bản cho các tín đồ đạo Sikh cho đến ngày nay. Khalsa bao gồm 5 chữ K:

  1. KESH – không được cắt tóc, râu, lông trên cơ thể trong suốt cuộc đời.
  2. KIRPAN – con dao găm bằng thép để bảo vệ danh dự.
  3. KARA – vòng tay bằng thép như một sự cám kết tuân theo luật Sikh.
  4. KANGA – cái lược nhỏ để chải tóc râu.
  5. KACHERA – một cái quần lửng.







   Đàn ông theo đạo Sikh được ban cho họ Singh, phụ nữ thì có họ Kaur. Cả hai họ này đều có ý nghĩa rất đặc biệt. “Kaur” có nghĩa là “công chúa”, vì đối với người theo đạo Sikh, mỗi người phụ nữ quý giá như một công chúa.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

ĐẠO SIKH - PHẦN 1



Một trong những hình ảnh đặc trưng về Ấn Độ ngày nay là chân dung những người đàn ông râu dài, đầu quấn khăn Turban dầy cộm của người theo đạo Sikh. Đặc trưng đến mức cứ nhìn thấy hình ảnh người đàn ông râu dài, đội khăn Turban là người ta liên tưởng đến Ấn Độ.
   Sự thật là đạo Sikh chỉ mới hình thành khoảng 500 năm trước và số tín đồ thực sự chỉ trên dưới 24 triệu người. Tuy sinh sau đẻ muộn hơn các tôn giáo khác ở cái nôi của các tôn giáo lớn như Hindu, Phật giáo và số tín đồ rất khiêm tốn nhưng đạo Sikh lại có một ảnh hưởng mạnh mẽ lên đời sống tinh thần của người Ấn Độ, đến mức có trở thành một biểu tương cho Ấn Độ cũng không có gì là quá đáng.






  Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy rằng vó ngựa xâm lăng của các đạo quân Hồi giáo đã càn quét tiểu lục địa Ấn Độ vào thế kỷ thứ 10. Sau khi đã hoàn thành công cuốc xâm chiếm Ấn độ rộng lớn, Hồi giáo đã được các vua Islam truyền bá và áp đặt lên đời sống người Ấn, những người vốn dĩ đã sống theo lối sống Hindu suốt hơn 10.000 năm. Gốc rễ sâu đậm của văn hoá Hindu đã không bị làn sóng văn hoá Hồi giáo mới xoá sổ mà trái lại còn ảnh hưởng ngược lại những kẻ đi xâm lăng. Các hậu duệ của những kẻ Hồi giáo man rợ và khát máu được sinh ra và lớn lên trong môi trường thấm đẫm văn hoá Hindu nên đã ngày càng xa rời gốc rễ Hồi giáo mà nghiêng dần về phía Hindu. Sau vài trăm năm, một nền văn hoá mới của giới quý tộc đã hình thành ở Ấn Độ dưới thời cai trị của các ông hoàng Hồi giáo gọi là Mughal- một kiểu văn hoá tuy vẫn đề cao Hồi giáo nhưng đã thu nạp nhiều phong tục Hindu của vùng đất mới.
  Không xoá bỏ được lối sống Hindu, lại cũng không du nhập hoàn toàn được văn hoá Hồi giáo; Ấn Độ lúc bấy giờ có một xã hội chứa đầy những dị biệt, mặt này thì xung đột dữ dội, mặt khác lại hoà quyện vào nhau không thể tách rời. Hoàn cảnh lịch sử ấy thật thích hợp cho một tôn giáo mới dung nạp được tất cả những gì tốt đẹp của các tôn giáo đã có trước.   

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

ĐÔNG TÂY GIAO THOA

Bài đã đăng trên Nhịp Cầu Thế Giới - Hungary
Thứ tư - 27/04/2016 14:30

(NCTG) Tây Phương đã có một mô hình về động cơ tâm lý của con người từ năm 1943 tức chỉ trên dưới 70 năm tính tới nay. Nhưng thật khó tin là Đông Phương đã chuẩn hóa mô hình Tháp Maslow này ít nhất là hơn 2.000 năm trước.

Đông là Đông và Tây là Tây
và cả hai không bao giờ gặp nhau
Cho đến khi Đất và Trời hiện diện trước Ngôi Phán Xét của Thượng Đế.

(“Bài Ballad của Đông và Tây” - Rudyard Kipling, 1889)

Đây là những câu thơ thường được trích dẫn đến mức trở thành sáo ngữ khi có ai đó muốn nói về sự khác biệt không thể dung hòa giữa hai nền văn hoá Đông và Tây. Điều này có thể đúng nhưng cũng có thể chưa chính xác, thậm chí là hoàn toàn sai lạc trong một số trường hợp. Trường hợp mà chúng tôi muốn đề cập đến ở đây là Tháp Nhu Cầu nổi tiếng của Abraham Maslow (The Needs’ Hierarchy of Maslow).

Năm 1943, nhà tâm lý học Abraham Maslow xuất bản trên tờ tạp chí chuyên ngành tâm lý “Psychological Review” một công trình nhan đề “A theory of Human Motivation” (Lý thuyết về động cơ của con người). Bộ khung chính yếu để Maslow dựng lên lý thuyết của ông nghiên cứu về hành vi của con người chính là một biểu đồ hình tháp được đặt tên là The Need’s Hiearchy of Maslow, thường được dịch sang tiếng Việt là Tháp Nhu Cầu Maslow.

Nội dung căn bản của Tháp Nhu cầu Maslow là chia các nhu cầu của con người thành 5 phần và sắp xếp chúng theo một trật tự đi lên. Các tầng tháp này là:

1. Tầng 1: Physiological - các nhu cầu vật chất và sinh lý căn bản nhất như: thở, ăn, uống, ngủ, nghỉ, bài tiết, tình dục...

2. Tầng 2: Safety - các nhu cầu an toàn: an toàn thân thể, sức khoẻ, việc làm, tài sản...

3. Tầng 3: Love/Belonging - các nhu cầu giao lưu tình cảm và trực thuộc: gia đình, bạn bè, nhóm thân hữu, câu lạc bộ, hội nhóm...

4. Tầng 4: Esteem - các nhu cầu được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.

5. Tầng 5: Self - Actualization - nhu cầu được thể hiện bản thân: muốn thành đạt, muốn sáng tạo, muốn thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, có và được công nhận là thành đạt...
 



Sơ đồ Tháp Nhu Cầu Maslow
Sơ đồ Tháp Nhu Cầu Maslow

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

HỒ ANH THÁI – TÁC GIẢ CỦA HUYỀN THOẠI “THÍCH HUYỀN DIỆU”



Theo tiểu sử đăng trên Wikipedia và do chính Hồ Anh Thái (HAT) hé lộ qua các cuộc phỏng vấn rải đều hơn 20 năm qua khắp các báo chí, diễn đàn văn nghệ thì HAT sinh năm 1960, tốt nghiệp Đại học Ngoại Giao Hà Nội năm 1983, là cán bộ ngoại giao của Bộ Ngoại Giao liên tục từ khi ra trường cho đến nay (1983-2016) . Hiện tại đã leo lên đến chức Phó Đại sứ của Đại sứ quán Việt Nam tại nước Cộng Hoà Hồi giáo Iran.  

Ngoài nghề nghiệp rất hanh thông và thành đạt của một cán bộ ngoại giao chuyên nghiệp, Hồ Anh Thái còn được đám quan chức văn nghệ ưu ái coi là một “hiện tượng văn chương” và tạo mọi điều kiện thông qua Bộ Ngoại giao đến Bộ Văn hoá để HAT xuất bản đều đặn hàng chục cuốn tiểu thuyết có chất lượng cỡ “mắm Thái”. Đáng kể hơn nữa, hai Bộ này còn đồng lòng tạo mọi điều kiện để HAT biệt phái leo lên làm chủ tịch Hội Nhà Văn ở thủ đô Hà Nội, ăn trên ngồi trước cả những cây đa cây đề trong làng văn Bắc Kỳ suốt 10 năm ròng rã (2000-2010).

Sự nghiệp cả ngoại giao lẫn văn chương của HAT bắt đầu cất cánh khi HAT được cử sang làm cán bộ ngoại giao tập sự ở Đại sứ quán Việt Nam tại New Delhi- Ấn Độ. Sau hàng chục năm cúc cung làm việc, HAT đã khoe là mình kiếm được học vị tiến sĩ Đông phương học đồng thời tự nhận mình là một nhà Ấn Độ Học (Indologist) . Nghiên cứu về Ấn độ học thì thực sự có ngành khoa học này nhưng để có thể dõng dạc khoác lên mình vinh dự một “Indologist” thì trên thế giới chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay các học giả nổi tiếng. Nhưng thôi, cứ xí xoá, cứ để nhà “Ấn Độ Học” Hồ Anh Thái thoả mãn với vinh dự tự phong ấy, rồi chúng ta sẽ thấy tầm cỡ của nhà “Ấn Độ học” này như thế nào qua vụ “Thích Huyền Diệu”.

Như HAT đã từng thú nhận trong các bài báo từ thập niên 1990 gửi từ Ấn Độ về đăng trên các báo trong nước, chính Hồ Anh Thái là người đã “phát hiện” ra Thích Huyền Diệu khi ông này đang xây dựng ngôi chùa tư nhân trên khu đất mua được ở ngoại ô Bodh Gaya-Ấn Độ trong một lần Hồ Anh Thái đi công tác tại đây vào năm 1990. Cũng chính HAT là người phát hiện ra thông báo của chính phủ vương quốc Nepal kêu gọi các nước đến xây chùa trong khu vực quy hoạch của Lumbini sau khi Nepal và Nhật Bản đã đổ công của vào khu này suốt hơn 20 năm. Và chính HAT đã là người tích cực liên hệ với chính phủ Nepal để bảo lãnh và tiến cử Thích Huyền Diệu đến Lumbini-Nepal nhận lãnh suất cất chùa quốc gia dành cho nước Việt Nam để Huyền Diệu hô biến nó trở thành ngôi chùa tư nhân của chính mình.

Hợp đồng LumBini Development Trust cho Huyền Diệu thuê đất cất chùa (tức Huyền Diệu đến Lumbini sau khi nơi này đã quy hoạch và phục hưng)

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

TRANH DÂN GIAN MITHILA – TÂM HỒN THƠ MỘNG

“I try to apply colors like words that shape poems, like notes that shape music. ”
- Joan Miro

“Tôi cố gắng ghép các màu sắc [vào bức tranh] giống như các từ tạo nên bài thơ, giống như các nốt tạo nên bản nhạc” Joan Miro- Danh hoạ Tây Ban Nha thế kỷ 20
____________
 Hội hoạ là môn nghệ thuật vô thanh.
Thế nhưng, với những danh hoạ như Joan Miro hay Picasso, tranh vẽ của họ lại rộn vang âm thanh bởi những sắc màu mang đầy “tiếng” của cuộc đời.
Ở Vương quốc Mithila ngày xưa, ngày nay bị chia đôi bởi biên giới hai nước Nepal và Ấn Độ, có một dòng nghệ thuật cổ xưa lại cất tiếng ca hát, mộng mơ như thế trước cả Joan Miro và Picasso nhiều thiên niên kỷ. Dòng tranh dân gian Mithila hay còn gọi là Madhubani, lấy theo tên một làng ngày ngay nằm ở bang Bihar thuộc India.
Ghép từ nhiều trích đoạn của các tranh Mithila
  Ngắm nhìn tranh Mithila, người xem chừng như có thể thấy được những vũ điệu mê hồn của màu và sắc, có thể nghe được tiếng nhạc lạc quan yêu đời của con người và thiên nhiên Ấn Độ và có thể cảm được cái chính xác nhất là “Tâm Hồn Ấn Độ” - Soul of India, mà không một dòng tranh nào của Ấn Độ có thể làm được.
  Ngây thơ và hồn nhiên.
  Tranh Mithila phô bày được cái “bản thể nguyên sơ” của tâm hồn con người. Phô bày được khoảnh khắc đầu tiên con người xúc động trước Cái Đẹp và tìm cách lưu nó lại để thưởng thức.

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

"ĂN TRÊN NGỒI TRƯỚC" TẬP CẬN BÌNH

    Cuối tháng 9 năm 2014, mình có một chuyến đi kết hợp làm ăn + khảo cứu ở Ấn Độ. Chuyến đi đến 40 ngày, trài dài từ Nam Ấn (Chennai) sang Tây (Mumbai) lên Bắc (Gujarat) rồi qua Đông (Kolkata). Đi bằng nhiều phương tiện từ máy bay tới xe lửa, xe bus đường dài. Đến những điểm cực Nam, cực Tây, cực Đông của Ấn Độ, lặn lội đến cả những di tích xa xôi hẻo lánh ở vùng Viễn Tây India. Tham dự được ba lễ hội lớn : Ganesh Chaturthi ở Chennai và Mumbai, Lễ hội nhảy múa 9 ngày Navaratri ở Gujaratvà Lễ hội Durga ở Kolkata.
Nhưng thú vị nhất là cái sướng kiểu A.Q.: ăn trên ngồi trước Thiên Hạ Đệ Nhất Trung Hoa Nhân- Tập Cận Bình. He he he

  Điểm đến đầu tiên trong chuyến đi ấy của mình là Chennai, thủ phủ của bang cực Nam Ấn độ - Tamil Nadu. Sau mấy ngày ở đó, công việc lại mang mình đến Kolkata, rồi Mumbai để rồi lại phải đến Ahmedabad thủ phủ của bang cực Tây Ấn Độ- Gujarat. Do là hành khách thường xuyên của Air India – hãng hàng không quốc doanh tốt nhất và lớn nhất Ấn Độ nên mình được hãng hàng không này thưởng một voucher tặng một kỳ nghỉ 4 đêm tại bất kỳ hotel 5 sao nào ở Ấn Độ (trong danh sách Air India đính kèm). Mình chọn Hotel Grand Hyatt ở Vastrapur- Ahmedabad và lên đường đến đó từ Mumbai bằng xe bus đường dài (để có thể ngắm nhìn quang cảnh dọc đường và giảm bớt jet-lag sau hàng loạt chuyến bay liên tục trong thời gian ngắn).

Hyatt Hotel ở Ahmedabad
   Đến Ahmedabad vào nửa đêm ngày 13/09/2014, nhân viên tiếp tân của Hyatt nồng nhiệt đón chào, và mình tận hưởng sự xa hoa sau gần nửa tháng vừa ăn vừa chạy, trú ngụ trong các hotel bình dân để lấy lại sức sau khi vừa làm việc vừa tham gia lễ hội Ganesh Chaturthi hoành tráng ở Chennai và Mumbai. Số phận đã sắp đặt khéo léo làm sao khi mình đã book vào đúng hotel sẽ dành cho Chủ Tịch China Tập Cận Bình trú ngụ trong chuyến viếng thăm Ấn Độ của ông ấy. Mình tận hưởng sự xa hoa đó suốt 4 ngày 13-17/09/2014 cho đến tận lúc họ Tập vào trú ngụ. Đúng là ăn trên ngồi trước Tập Cận Bình … ha ha ha… 

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

THẦY HUYỀN DIỆU LÀ MỘT GÃ BỊP BỢM

Đức Phật dạy : "Kẻ nào cố ý nói dối mà không biết hổ thẹn thì không có điều gì ác mà không dám làm."

Xem thêm: http://www.webtretho.com/forum/f26/20-tuoi-700-usd-va-di-khap-the-gian-1257142/index1032.html
Nguồn: Webtretho.com
UPDATE 08/03/2021:

BỊP BỢM THÍCH HUYỀN DIỆU

 Các bạn thân mến,

Tôi (NP) mới nghe một người bạn kể rằng người ấy có xem được một clip trên Youtube trong đó huyền diệu thanh minh thanh nga rằng thì là mà hắn mắc nghiệp KHẨU NGHIỆP vì hắn chửi tôi (NP) có 10 phút nên bị tôi chửi hắn suốt 10 năm. Vậy là cái THÓI DỐI TRÁ, BỊP BỢM, GẮP LỬA BỎ TAY NGƯỜI của huyền diệu bao năm qua vẫn không thay đổi!

thầy huyền diệu BỊP BỢM

Thưa các bạn,

Tôi không rảnh để mà chửi một kẻ đi tu mà mặt dày như thớt, láo khoét không biết ngượng!

Chuyện hắn chửi tôi bằng điện thoại gần 30 phút mở loa ngoài cho cả chùa cùng nghe với những lời lẽ hạ tiện đầu đường xó chợ nhất là có thật. Tuy nhiên tôi đã không chấp, không đôi co với gã hạ lưu khoác áo nâu sồng.

Mãi đến gần 10 năm sau, một vài người bạn thấy hắn tác oai tác quái, rêu rao kể lể như mình là Phật sống, giảng đạo khắp nơi để gom tiền cung phụng cho vợ con của hắn thì họ mới hỏi thăm tôi về huyền diệu. Khi đó tôi mới đưa ra NHỮNG BẰNG CHỨNG CỤ THỂ GIẤY TRẮNG MỰC ĐEN để lật tẩy tên bịp bợm xưng danh "thầy huyền diệu".

TẤT CẢ MỌI VIỆC TÔI ĐƯA RA ĐỀU CÓ BẰNG CHỨNG CỤ THỂ để chứng minh sự dối trá, lừa đảo, bịp bơm của huyền diệu nhằm cảnh tỉnh mọi người đừng u mê nghe lời khẩu nghiệp của tên bịp bợm mà sa vào ma đạo. Đây không phải là CHỬI qua chửi lại như tên bịp bợm huyền diệu NGUỴ BIỆN.

Gã bịp bợm này đúng là bị KHẨU NGHIỆP. 

Không phải vì chửi tôi hay một vài người khác đã từng cống hiến sức lực và của cải cho hắn. Mà vì hắn lạm dụng NGÃI NÓI để DỐI LÁO, BỐC PHÉT, DỰNG CHUYỆN KHÔNG THÀNH CÓ, GÂY CHUYỆN THỊ PHI, LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN... 

Nếu bạn nào có ở gần huyền diệu hãy hỏi hắn có biết vợ chồng Kiến trúc sư Huỳnh An hay không? 

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Giải mã bí ẩn Ấn Độ?

  Nguyễn Gia Kiểng (11/2013)
Link gốc: http://www.ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=4897%3Agi-i-ma-bi-n-n-d-nguy-n-gia-ki-ng&catid=44&Itemid=301

**********************

“…Phép mầu lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là phép mầu Ấn Độ và có lẽ trong thế kỷ 21 cũng thế. Ấn Độ đã thành công và còn đang tiếp tục thành công…”
 

Ngay trước khi tôi sắp lên đường đi thăm Ấn Độ một bạn trẻ trong nước hỏi tôi trên Facebook: "Tại sao Ấn Độ có dân chủ mà lại tụt hậu, nghèo đói, bất công, dơ bẩn, đàn ông hay hãm hiếp?". Tôi không thể trả lời câu hỏi đó vì đối với tôi Ấn Độ là một thành công và tôi đang cố gắng giải mã thành công đó, nghĩa là tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại thành công dù trước đây mọi dự đoán đều rất bi quan?
Những gì mà trong tuổi thanh thiếu niên tôi nghe được về Ấn Độ đều mô tả một đất nước kinh dị, nghèo khổ và dơ bẩn một cách huyền bí. Trong thập niên 1960 khi du học tại Pháp tôi may mắn có một người bạn thân mà cha mẹ là hai ông bà bác sĩ từng làm công tác nhân đạo nhiều năm tại Ấn Độ và đã góp phần quyết định đẩy lùi bệnh hủi tại đây. Tôi lui tới thường xuyên gia đình này và được coi như người nhà. Qua họ tôi cũng quen biết nhiều chuyên gia khác về Ấn Độ. Những gì hai ông bà và các bạn họ nói cũng phù hợp với những gì có thể đọc trong các sách và báo: Ấn Độ không có tương lai, người ta chỉ có thể vì lòng nhân đạo mà giúp nó đỡ nghèo khổ chứ không thể giúp nó vươn lên. Ấn Độ có tất cả mọi khó khăn mà một quốc gia có thể có và đều có ở mức độ nguy kịch. Nghèo khổ, dơ bẩn, tham nhũng và bất công cùng cực, các bệnh truyền nhiễm lan tràn, con người bệnh tật, mê tín dị đoan và bi quan yếm thế. Đã thế Ấn Độ lại không phải là một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn độn với gần 2000 ngôn ngữ và hơn 500 vùng dị biệt xuất phát từ những chiến quốc cũ không có và cũng không muốn có quan hệ hợp tác với nhau. Trong lòng một mình Ấn Độ có nhiều di biệt và tương phản hơn cả trong phần còn lại của thế giới. Người Ấn Độ trong tuyệt đại đa số không biết đọc biết viết và không nhìn nhau như đồng bào. Mẫu số chung của cái thế giới hỗn tạp này chỉ là sự nghèo khổ, bệnh tật, dơ bẩn ngoài mức tưởng tượng. Ra ngoài đường ở bất cứ thành phố nào người ta không thể không thấy những đoàn người hốc hác vì đói trong đó có nhiều người đang chết đói. Một vấn đề nghiêm trọng khác là nạn nhân mãn. Ấn Độ đã quá đông dân và mỗi năm vẫn thêm một số người tương đương với dân số của cả nước Úc. Kết luận, Ấn Độ hoàn toàn tuyệt vọng. Những trí thức thân cộng, rất đông đảo trong suốt thập niên 1960, đôi khi so sánh Ấn Độ và Trung Quốc để bênh vực cho chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo họ hai nước lớn này đã chọn hai con đường khác nhau vào cùng một thời điểm và thực tế cho thấy là Trung Quốc đã hơn hẳn Ấn Độ, điều này chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản. So sách này khập khiễng bởi vì hai nước khởi hành từ hai mức độ quá khác nhau.
Thế rồi người ta càng ngày càng ít nói tới Ấn Độ. Chưa ca tụng Ấn Độ nhưng cũng ít ai còn nói Ấn Độ là một trường hợp tuyệt vọng nữa. Tới gần ngưỡng cửa thế kỷ 21 Ấn Độ được nhắc tới như là một thành công. Trong những năm gần đây không còn ai phủ nhận Ấn Độ là một cường quốc đang lên và tư cách thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ còn là vấn đề của một vài năm.
Không những thế, sự thành công của Ấn Độ lại rất lành mạnh. Ấn Độ không "đi nước dưới" như Trung Quốc và hầu hết các nước đang phát triển, nghĩa là khai thác nguồn nhân công rẻ để xuất khẩu quần áo, giày dép và những sản phẩm kỹ thuật thấp.  Ngược lại, Ấn Độ "đi nước trên" và cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong những kỹ thuật hiện đại: công nghệ thông tin, điện tử, sinh hóa, dược phẩm, kỹ nghệ ôtô, hàng không v.v.

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

LỄ HỘI GANESH JATRA Ở CHABAHIL-KATHMANDU


GANESH JATRA 2013


  Đây có thể là lễ hội xưa nhất của Kathmandu còn tồn tại cho đến ngày nay (khoảng hơn 2200 năm).
Ganesh Jatra kéo dài bốn ngày bắt đầu từ tối hôm nay. Là lễ hội của cộng đồng dân bản địa Newar khu vực Chabahil. Đây là thủ đô xưa nhất của người bản địa Thung Lũng Kathmandu, tên là Deopatan  (Deo: thần thánh; Patan: thành phố- Deopatan: Thành phố thần thánh, một cách xưng tụng thủ đô thời cổ đại).
 Người bản địa xưa hơn hết ở Kathmandu Valley là người Kirat (chính là một bộ tộc thuộc sắc dân Naga, xưa kia India gọi là Mleccha [Mã Lai theo cách dịch của ông Bình Nguyên Lộc). Tộc Kirat này đã từng được ghi nhận trong lịch sử India qua việc tham gia trận đại chiến Bharat nổi tiếng , sau này ghi lại thành sử thi Mahabharata. Khi Alexander tấn công India, Chandragupta Maurya (ông nội của  Asoka) được sự giúp đỡ của các đội quân thiện chiến người Kirat đã chặn đứng bước tiến qua phía Đông của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Tây phương. Sau đó, Chandragupta thành lập nên đế chế Maurya nổi tiếng.
 Asoka, sau khi đã trở thành một Phật tử thuần thành, có làm một cuộc hành hương thăm viếng hầu khắp các thánh tích Phật giáo ở India. Sau khi thăm viếng Lumbini và dựng trụ đá ở đó, Asoka vượt qua dãi Terai đi lên tận Thung Lũng Kathmandu là thủ đô của vương quốc Kirat thời bấy giờ. Tại Kathmandu, ông xây dựng 5 bảo tháp ở nơi ngày nay là thành phố Phật giáo Patan. Ông gã con gái của mình, Công chúa trưởng Charumati cho một hoàng tử Kirat. Sau đó Asoka quay về lại India còn Charumati ở lại Thung lũng Kathmandu.
  Hai vợ chồng Charumati khi lớn tuổi đã cùng nhau ước nguyện xây dựng mỗi người một ngôi chùa Phật ở Deopatan. Ông hoàng Kirat mất trước, chưa kịp hoàn thành tâm nguyện. Riêng Charumati thì hoàn thành được ngôi chùa ngày nay gọi là Charumati Vihara theo Sanskrit , hoặc theo tiếng Newar là Charumari bahil, thường gọi tắt là Chabahil. Đây chính là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Thung lũng Kathmandu. Cộng đồng họ Sakya của Đức Phật Sakya di tản từ Kapilvastu lên Kathmandu Valley 2500 năm trước đã định cư ở khu vực Chabahil này và là cộng đồng Sakya lâu đời nhất của Thung lũng Kathmandu.

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

LẠM BÀN VỀ “CHÚ” VÀ “THẦN CHÚ”

Bài quá hay. Cám ơn tác giả Phạm Lưu Vũ và nhà văn Nguyễn Trọng Tạo, xin phép hai bác được đưa bài này về đây để em lưu làm tài liệu. Kính!
NP 
Link: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/11/16/lam-ban-ve-chu-va-than-chu/
PHẠM LƯU VŨ
Nói đến “chú” (hay “thần chú”), thường dễ bị quy chụp ngay là mê tín dị đoan. Ấy là khi chưa hiểu thực chất của “chú” là gì? kể cả người đọc “chú” lẫn người nghe “chú”, rằng “chú” có từ khi nào?,  ai là người lập ra “chú”?, hiệu nghiệm của nó ra sao?, khi nào có hiệu nghiệm?, tại sao lại có hiệu nghiệm?, v,v… Chưa kể các loại “thầy, bà…” xưa nay thường sử dụng “chú” vào những mục đích không mấy lương thiện của họ, điều này càng làm cho “chú” dễ bị hiểu lầm. 
Lục tự thần chú "Om Mani Padme Hum" của Quán Thế Âm Bồ Tát

Nay bàn về “chú”, trước hết xin hãy gạt những thứ đó sang bên cạnh cái đã.
Trong 6 nguyên tắc biên dịnh Kinh Phật từ Phạn ngữ sang Hán ngữ do pháp sư Huyền Trang đưa ra, có 1 nguyên tắc là chỉ phiên âm mà không dịch khi gặp các trường hợp sau:
1- Những từ có quá nhiều nghĩa lý thâm sâu: ví dụ Bát Nhã, Ba La Mật, Tam Muội…
2- Những câu “chú”, bài “chú”.
Nghĩa là “chú” chỉ được phép phiên âm, mà không dịch. Kể cả những đoạn “chú” nằm trong kinh văn, thì khi đọc tụng, phần kinh văn có thể tụng lời dịch, còn “chú” thì (bắt buộc) phải tụng theo phiên âm.
Đời sau nhiều người vẫn tìm cách dịch nghĩa các câu “chú” hoặc bài “chú” đó. Song cũng chỉ là dịch để biết, biết (1 phần rất nhỏ) nghĩa lý thế thôi, chứ nếu đọc hoặc tụng theo lời dịch thì dứt khoát không có tác dụng. “Chú” (như sau đây sẽ thấy), là một dạng “ngôn ngữ” đã ra ngoài nghĩa lý thông thường vậy.
Xin “mở ngoặc” một tí: Trong cuộc đời đôi khi cũng gặp những trường hợp tương tự như “chú”. Ví dụ những “mật khẩu” dùng trong quân đội chẳng hạn. Đó là những khẩu lệnh của 1 phía nhằm “quy ước” sẽ thực hiện 1 hành động nào đó mà phía bên kia dẫu có nghe thấy cũng không tài nào hiểu được. Đừng tìm cách “giải nghĩa (đen)” của cái “mật khẩu” ấy làm gì, việc đó không những vô nghĩa, thậm chí có thể dẫn đến… mất mạng như chơi (trường hợp Dương Tu giải thích mật khẩu “kê cân” của Tào Tháo trong truyện Tam Quốc là 1 ví dụ). Trường hợp này và những trường hợp tương tự cũng có thể gọi là 1 dạng “chú”, đó là “chú” của phàm trần (gọi là “phàm chú”).
Vậy “chú” là gì?
“Chú” (từ đây có nghĩa là “thần chú” để phân biệt với “phàm chú”), có thể (tạm) hiểu là những MẬT NGỮ do một bậc giác ngộ hoặc một bậc đắc đạo nào đó đưa ra nhằm “chỉ thị” hoặc “ra lệnh” cho những đồ chúng, quyến thuộc… của vị đó ở những cõi giới khác cõi phàm phải thực hiện một công việc gì đó, một “quyền năng” nào đó đã có “nguyện” (hay giao ước) từ trước.

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

NAGALAND VÀ LỄ HỘI CHIM MỎ SỪNG


Các chiến binh Naga trong lễ hội Hornbill 2010


  1-NGƯỜI NAGA
   Với những người mê say văn hóa dân tộc của India, những tay mê say du lịch bụi, mong thám hiểm những vùng đất hoang dã thì đặt chân đến Nagaland luôn là một ước mơ cháy bỏng.

  Nagaland nằm xa xôi cách trở ở khu vực Đông Bắc India giáp biên giới với Myanmar (Miến Điện). Đây là tiểu bang có quy chế tự trị cao nhất trên toàn India, là vùng đất của rất nhiều bộ lạc thuộc chủng tộc Naga. Sự phức tạp là ở chỗ các bộ lạc Naga cư trú trải dài từ Nagaland sang đến miền Bắc Myanmar. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nagaland là nơi đụng độ giữa quân đội Nhật và Đồng minh Anh-Ấn với sự tham gia can trường của những chiến binh Naga, cũng là nơi chứng kiến thất bại đầu tiên của quân đội Nhật trước quân Đồng Minh tại Đông Nam Á.  Sau WW2, từ giữa thập niên 1950, các nhóm vũ trang của người Naga đã tiến hành chiến tranh để đòi thành lập một "Đại Naga" (Greater Naga) bao gồm cả một phần lãnh thổ của Myanmar. Mãi cho đến năm 2007, chính phủ India mới dàn xếp được sự ngừng bắn với các lực lượng vũ trang đòi độc lập của người Naga.  Một hiểm họa khác mà chính phủ India mong muốn không bao giờ xảy ra: Nagaland trở thành cửa ngõ để thuốc phiện từ Tam giác vàng tràn vào Nam Á. Vì yếu tố địa chính trị phức tạp, cộng thêm tình hình bạo loạn luôn chực chờ bùng phát nên Nagaland được xếp vào Restrict Area (Vùng Cấm) của India.
 
  Nói đến Nagaland người nghĩ ngay đến hai "Đặc sản": các bộ tộc săn đầu người và lễ hội Hornbill . Tập tục săn đầu người của một số bộ lạc Naga đã bị thực dân Anh ngăn cấm và khai tử vào đầu thế kỷ 20. Tuy chính thức trên giấy tờ là vậy, nhưng vì là một tập tục tôn giáo thiêng liêng của người Naga, người ta đồn rằng ở những vùng sâu vùng xa heo hút thỉnh thoảng vẫn có người …. mất đầu. Du khách từ bên ngoài vào Nagaland được căn dặn tuyệt đối không đi một mình, không lang thang vào vùng sâu vùng xa, không lang thang trong đêm tối nếu không có cảnh sát hay quân đội hộ tống. Thế là đặc sản thứ nhất khó xơi phải không các bạn? Mà thú thực chắc chẳng ai muốn trải nghiệm tìm kiếm đặc sản ấy làm gì… he he…

Tục thờ sọ người của một vài bộ lạc Naga vẫn còn tồn tại

     
  Còn lại đặc sản thứ hai thì đó chính là lý do mà du khách tập trung về Nagaland: Hornbill Festival.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

TẾT INDIA-DIWALI Ở... WHITE HOUSE

  Mấy hôm rồi bận tối mắt tối mũi nên check mail không kỹ, để sót một cái mail từ ...White House... he he...Like 1000 lần cho câu: "We want to make the White House the “people’s house,” we mean all people." Đây mới thực sự là "Của Dân, Do Dân, Vì Dân"; không phải Quân đội Nhân dân, Tòa án Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân... nhưng Ngân hàng Nhà Nước...
  NP
************************

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

TẾT MITHILA-CHHATH PHẦN 2: THẦN MẶT TRỜI SURYA

TẾT MITHILA-CHHATH PHẦN 1
*****************************************************
PHẦN 2: THẦN MẶT TRỜI SURYA



    Vừa rồi là một loạt các Tết của India và Mithila (một quốc gia thời cổ đại của India). Có một mối liên quan giữa Tết India-Diwali và Tết Mithila-Chhath: gia đình Thần Mặt trời Surya. Để có thể hiểu rõ thêm về lịch sử và phong tục cổ xưa của các Tết này, mời các bạn cùng lướt qua câu chuyện về gia đình Thần Mặt trời Surya.
   Surya theo Sanskrit có nghĩa là "Ánh sáng chói lọi huy hoàng", từ Surya theo văn minh India thường được xem là đồng nghĩa với mặt trời. Thần Surya là vị thần đứng đầu trong các thần liên quan đến các hành tinh. Vị thần này thường được mô tả ngự trên một cỗ xe do bảy con ngựa kéo. Bảy con ngựa này tượng trưng cho 7 ngày trong một tuần.

Thần Mặt trời Surya

   Trong cõi thần linh có vị thần Vishwakarma là Thần Kiến trúc và Xây dựng. Ông này có một cô con gái là Sanjana (nghĩa mà mềm, mỏng manh) rất đẹp nhưng tính tình đỏng đảnh, khó chịu nên mãi chưa có ai đến rước có mòi trở thành "ống chề"…. Vishwakarma liền tìm đến Surya và ngỏ lời gả Sanjana cho Thần mặt trời. Vốn nể trọng bậc niên lão Vishwakarma nên Surya đồng ý không chút đắn đo.
    Sanjana về với Surya một thời gian thì thói đỏng đảnh lại trỗi dậy. Cô nàng nhận thấy rằng sức nóng và ánh sáng chói lọi của Surya là cháy sạm làn da trắng toát của nàng và trên hết nàng luôn bị che khuất bởi hào quang của ông chồng vĩ đại. Vì làn da nàng trở nên sẫm màu, các vị thần gọi đùa nàng là Sandhya nghĩa là Chạng Vạng hi hi… Thế là Sanjana quyết định bỏ trốn. Nàng tạo ra một nàng Sanjana nhân bản vô tính ( he he… đây có lẽ là sản phẩm nhân bản vô tính đầu tiên trong lịch sử) giống nàng như đúc và gọi là Chhaya, nghĩa là "cái bóng" (các bạn chú ý đến tên Chhaya nhé vì đấy chính là nguyên gốc của từ Chhath-Tết của người Mithila). Nàng bố trí cho Chhaya thay thế mình để ở bên cạnh Surya và bỏ trốn về nhà Vishwakarma.

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013

TẾT MITHILA-CHHATH

UPDATE: Một số hình ảnh về lễ đón mặt trời mọc trong ngày cuối cùng của Chhath ở Kathmandu:

Phó Tổng thống Nepal Parmanand Jha hành lễ đón mặt trời

"Hồ Hoàng Hậu" (Rani Pokhari) vào sáng sớm lễ Chhath

Hàng ngàn người (70% là phụ nữ) tập trung về Hồ Hoàng Hậu để hành lễ Chhath trong vòng 4 ngày vừa qua

Panorama view của Hồ Hoàng Hậu sáng cuối cùng của Chhath 2013 (hình rất rộng, các bạn bấm vào hình để xem toàn màn hình)