Hiển thị các bài đăng có nhãn VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

TỘI LỖI CỦA THÍCH HUYỀN DIỆU 2

 THÍCH HUYỀN DIỆU CÓ MỘT TRỌNG TỘI LỚN BẬC NHẤT TRONG CÁC TRỌNG TỘI MÀ Y ĐÃ PHẠM PHẢI: ĂN TIỀN CÚNG DƯỜNG TAM BẢO VÀ XÂY CẤT CHÙA.

Tất cả những người đã từng dự khán những buổi "thuyết pháp", "dạy làm giàu" của thích huyền diệu chắc chắn sẽ phải xác nhận : thích huyền diệu luôn kêu gọi "cúng dường làm từ thiện, làm phước, xây chùa" và chắc chắn không ít hơn một lần đã móc hầu bao cúng tiền mặt cho gã ranh nhân khoác áo nhà sư này.

RANH NHÂN THÍCH HUYỀN DIỆU


Xin hỏi các vị:

- Có phải thích huyền diệu luôn rêu rao rằng: 2 cái chùa Việt nam phật quốc tự ở India và Nepal là do y tần tảo đi dạy các đại học danh tiếng trên thế giới để lấy tiền lương về xây cất?

-Có bao giờ y minh bạch số tiền "cúng dường" của quý vị và mọi người trong việc từ thiện và xây chùa?

-Có bao giờ y ghi nhận công trạng của các Phật tử đã đóng góp tiền bạc cho y xây cất 2 cái chùa dù bằng bất cứ văn bản giấy hay hình thức nào suốt từ những năm 1990 của thế kỷ trước đến nay?

-Chắc có không ít lần quý vị đã nghe y thốt lên" "Chùa Của Tui" trong khi y chỉ là một gã thất nghiệp không có công việc được trả lương nào, toàn bộ tiền xây cất, duy trì hoạt động của 2 cái chùa đều từ sự hảo tâm của Phật tử. 

Đừng thấy thích huyền diệu quanh năm cải trang trong bộ quần áo nâu sồng cũ mèm (đồ mới gieo cho đệ tử wash cho cũ) mà tưởng rằng y là người tu hành đắc đạo. CÁI ÁO KHÔNG LÀM NÊN THẦY TU!

Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2018

WELCOME BACK!

Các bạn thân mến,

Sau 5 tháng đóng cửa để duyệt lại toàn bộ các bài đăng, Phú Nepal hôm nay xin trở lại cùng các bạn trên con đường mới.

______________________________
- Phú Nepal mở thêm Blog mới là GIẢI MÃ INDIA (http://giaimaindia.blogspot.com/) . Đây là blog Ấn Độ Học bằng tiếng Việt (Vietnamese Indology) với các bài viết nghiên cứu về Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá, Nghệ Thuật, Văn Hoá và Phong Tục của Ấn Độ và các vùng ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ.





___________________________

-Phú Nepal cũng sẽ cập nhật lại blog Phú Nepal (http://phunepal.blogspot.com/) để tập trung các bài viết về Nepal học (Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá, Nghệ Thuật, Văn Hoá và Phong Tục của các dân tộc Nepal).


Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

LÁ THƯ NEPAL 7: BUDDHA PAINTINGS

 Mời các bạn xem lại bài đầu tiên, cơ duyên để có Blog này: MỘT PHẬT ĐẢN KHÔNG THỂ NÀO QUÊN!
*****************************
Bộ ba tranh: Giác Ngộ-Truyền Dạy-Niết Bàn   -  Acrylic trên bố

    Mình vẽ tranh suốt mấy năm để sống ở Kathmandu-Nepal, từ cuối 2006 cho đến giữa năm 2010 (từ giữa 2010 đến nay bận làm nhiều việc khác nên không vẽ thêm được bức nào).
    Hai năm đầu, chủ đề và style thì lung tung, vì toàn vẽ theo đơn đặt hàng của các Gallery bán tranh ở các trung tâm du lịch như Thamel, Swayambhu, Bodhanath, Bhaktapur. Sống ở xứ lạ quê người, tứ cố vô thân phải bươn chải hết mức có thể, và phải nhẫn nhịn hết mức có thể. Có khi chỉ đủ 20 rupee (1/4 $=5000VNĐ) để đi 1 cuốc xe bus từ Swayambhu (nơi mình mướn một tầng nhà làm phòng vẽ đồng thời ăn ngủ ở đó luôn) đến Bhakatpur cách xa hơn 20km. Mang một mớ hơn chục tranh đi chào từng gallery mà bị chê ỏng chê eo, ép giá; cuối cùng thuyết phục được một anh chàng mới mở gallery mua hết cả mớ tranh mà chỉ tạm ứng có 50$ còn lại trả sau 01 tháng. Hic hic...
  Thị trường tranh ở Nepal hiện tại coi như con số không mặc dù Nepal không hiếm họa sĩ và có cả họa sĩ lớn từng sang Pháp sống, làm việc và kết bạn với Picasso (sẽ viết về ông này trong một entry khác).
   Nguyên nhân đầu tiên là Nepal có một truyền thống vẽ tranh Bhauvas quá sâu đậm. Bhauvas là tranh cuộn truyền thống origin của người Newar chủ nhân Thung Lũng Kathmandu. Nghệ thuật này đã đi cùng với Phật giáo Mật tông sang Tibet và trở thành Thangka trên đó. (Cũng sẽ có một entry về Bhauvas và Thangka luôn).Như các bạn đã biết Bhauvas hay Thangka có yêu cầu rất nghiêm ngặt về tính chính xác của từng chi tiết trong các mandala, hay các vị Phật, Thần, Bồ tát.... Tỷ lệ các bộ phận, hình dáng, màu sắc đều phải tuân thủ những quy định truyền từ thầy sang trò (thường là cha con trong nhà). Việc quy định cứng ngắc này đã giết chết sự sáng tạo của người nghệ sĩ vẽ thangka. Bạn đừng ngạc nhiên nếu du lịch ở Kathmandu mà được mời tham quan một Thangka factory (nhà máy sản xuất thangka) nơi người ta tô màu lên những chi tiết được rập ra từ mẫu in và hàng vạn cái mandala đều giống nhau như đúc. Riêng Bhauvas của người Newar thì có khá hơn một chút. Nếu các bạn tìm ra được một nghệ nhân nổi tiếng thuộc dòng họ Shakya hay Bajracharya bạn sẽ thấy sự khác biệt rất lớn giữa tranh của họ và tranh hàng chợ treo đầy trong các gallery. Với những nghệ nhân bậc thầy này một bứcbhauvas cỡ 25 x 35cm họ phải vẽ tỉ mỉ ít nhất là ba tuần trong khi một thợ thangka chỉ cần hai ngày là tô màu xong một bức 30 x 50cm, ( nếu làm theo dây chuyền, nghĩa là mỗi người tô một khâu thì còn nhanh hơn nữa).
  Nguyên nhân thứ hai là giá cả. Vì Nepal là một thiên đường cho khách du lịch bụi nên tất cả mọi thứ đều phải cạnh tranh giá cả khốc liệt để tồn tại. Khách du lịch từ giàu đến nghèo đều mang sẵn trong đầu một ý niệm cứng như đá hoa cương rằng "Nepal is cheap!" thế nên họ mặc cả và trả tiền rất thấp cho hầu hết các dịch vụ và sản phẩm địa phương không cần biết người dân trên núi phải mua từng khối nước để ăn uống và sinh hoạt ra sao (du lịch Nepal mùa tháng 2-4 khi cúp nước cúp điện thì bạn sẽ thấy). Bọn chủ gallery thì cũng giống như tất cả mọi nơi khác: tham lam và bần tiện (mình chưa bao giờ gặp được một chủ gallery nào ở Nepal mà tốt bụng! Hic) Để bán được giá rẻ cho khách du lịch nhưng vẫn giữ được mức lời như cũ, bọn này ép các họa sĩ phải bán tranh với giá ngày càng rẻ hơn. Thí dụ ngay chính bản thân mình: lúc đầu mới mua tranh của mình họ trả mỗi bức 40x60cm 200$, riết ép xuống chỉ còn 50-60$. Đến lượt các họa sĩ cũng phải hạ chất lượng tranh xuống- tiền nào của nấy mà. Một bức tranh vẽ cả 2-3 tuần bán 200$, nếu trả chỉ 50$ thì ok, lần sau vẽ một tuần 2 bức để có thể kiếm đủ 100$ sinh sống và 100$ để mua nguyên vật liệu vẽ tranh.
  Tranh Nepal có hẳn một trường phái vẽ các núi tuyết rất tuyệt, chỉ dùng dao và bay mà tạo ra được các bức tranh sống động như thật. Trước đây chỉ có vài cao thủ có bí quyết chuyên vẽ loại này trong đó có một tay được coi là số một. Tuy nhiên anh này phải uống rượu chếnh choáng vào vẽ mới đẹp và có cái tật là khi nào hết tiền, cần tiền mới vẽ một vài bức để.... trả nợ vay mượn từ các chủ gallery rồi vay tiền gối đầu tiếp để trả tranh lần sau.Sau này nghe nói anh bị bệnh nặng và đã không còn vẽ nữa. Tiếc. Vì tranh của anh khi xem dường như thấy cả ánh nắng tinh khiết phản chiếu từ tuyết vĩnh cửu, cả cái rét căm căm ghê hồn trên những đỉnh núi cô đơn vì cao quá không ai với tới để bầu bạn...
  Sau này kỹ thuật vẽ núi tuyết đã không còn là bí truyền. Nhiều tay "họa sĩ" copy các bức hình chụp núi tuyết giống đến từng hòn đá. Và nhân bản các bức tranh ra với tốc độ chóng mặt để kiếm tiền. Vì tranh vẽ núi tuyết là đặc sản của Nepal nên là loại được tất cả các chủ gallery đặt hàng cho các "thợ vẽ" nhân bản nhiều nhất. Mình có biết những tay "thợ vẽ" làm cùng lúc 8 bức núi tuyết giống hệt nhau trên cùng một cái khung căng tấm bố khổng lồ 1,5 x 2m sau đó cắt ra từng tấm một để ký tên (mà không hề ngượng) rồi bán cho 8 gallery khác nhau. Kẻ cắp gặp bà già thôi! Tranh 8000rupee thì 1 bức , còn tranh 1000 thì làm 8 bức. Họ (cả chủ gallery và "thợ vẽ" ) không còn biết xấu hổ, không biết đến giá trị copyright và độc bản của hội họa; chỉ còn biết nhân bản "tranh" như in ấn để kiếm tiền thật nhanh. Trong vòng xoáy đó, người họa sĩ thực thụ cần tiền để mua màu + nguyên vật liệu, và để sinh tồn có khi cũng phải nhắm mắt làm một số tranh nhân bản thỏa mãn đơn đặt hàng của chủ gallery nhằm đầu tư cho những gì tâm huyết.
  Tranh của mình thì kén chọn gallery, và một vài gallery mua chỉ để làm đa dạng thêm showroom của họ chứ không phải vì họ thích. Ngẫu nhiên có khi mình vẽ được bức nào hay là thảm họa kéo đến. Nhớ có lần mình nổi hứng sao đó, vẽ một bức hai chú trâu YAK Tibet đang húc nhau sống còn giữa.... muôn ngàn các vì sao. Một ông khách Âu mua ngay nó 500$ không cần mặc cả khi bức tranh mới chỉ treo trong galley có một ngày (tay chủ gallery trả mình có 70$ cho bức đó. Hic). Thế là tay chủ gallery đặt hàng mình vẽ 10 bức giống hệt như thế với giá 60$/bức. Mình cắn răng copy lại tranh của mình vì cần tiền, nhưng đến bức thứ 7 thì đầu hàng không copy được nữa.Không có hứng!
  Thế rồi đến 2009, sau một thời gian thử nghiệm mình tạo ra một kiểu của riêng mình trong thể loại Buddha paintings. Tranh bán chạy không ngờ. Có khi chủ gallery phải đến nhà mình canh mà lấy tranh sợ gallery khác lấy mất hi hi... Đó là thời huy hoàng trong thời gian làm nghề vẽ tranh ở Nepal của mình. Mình có quyền hét giá tranh, chỉ bán với tiền mặt không thiếu chịu, có khi còn được ứng trước. Có đủ tiền để mua màu xịn, cọ vẽ xịn. Khung chassis thì đặt hàng vài chục cái chứ không mua lẻ nữa, bố xịn thì mua nguyên cây 20m... Tất cả nhờ Chư Phật, Bồ tát hộ trì...
   Đến Phật Đản 2010 thì mình được vinh dự làm một solo exhibition ngay tại Khu Vườn Thiêng nơi Đức Phật đản sinh.
   Chưa hết! Nhờ triển lãm tranh Phật này mà mình được Asoka Mission mời dự như một Đại biểu chính thức của Hội Nghị Phật Giáo Toàn cầu lần 1 tại New Delhi-India cuối năm 2011.
    Mọi sự tùy duyên!
 
          Nhân ngày Chúa Nhật, mời các bạn xem tranh Phật của mình:
Buddha's Life 2m x 1m Acrylic trên bố.  Bức này được một nhà sưu tập Nhật Bản mua với giá 4.000$

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

LẠM BÀN VỀ “CHÚ” VÀ “THẦN CHÚ”

Bài quá hay. Cám ơn tác giả Phạm Lưu Vũ và nhà văn Nguyễn Trọng Tạo, xin phép hai bác được đưa bài này về đây để em lưu làm tài liệu. Kính!
NP 
Link: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/11/16/lam-ban-ve-chu-va-than-chu/
PHẠM LƯU VŨ
Nói đến “chú” (hay “thần chú”), thường dễ bị quy chụp ngay là mê tín dị đoan. Ấy là khi chưa hiểu thực chất của “chú” là gì? kể cả người đọc “chú” lẫn người nghe “chú”, rằng “chú” có từ khi nào?,  ai là người lập ra “chú”?, hiệu nghiệm của nó ra sao?, khi nào có hiệu nghiệm?, tại sao lại có hiệu nghiệm?, v,v… Chưa kể các loại “thầy, bà…” xưa nay thường sử dụng “chú” vào những mục đích không mấy lương thiện của họ, điều này càng làm cho “chú” dễ bị hiểu lầm. 
Lục tự thần chú "Om Mani Padme Hum" của Quán Thế Âm Bồ Tát

Nay bàn về “chú”, trước hết xin hãy gạt những thứ đó sang bên cạnh cái đã.
Trong 6 nguyên tắc biên dịnh Kinh Phật từ Phạn ngữ sang Hán ngữ do pháp sư Huyền Trang đưa ra, có 1 nguyên tắc là chỉ phiên âm mà không dịch khi gặp các trường hợp sau:
1- Những từ có quá nhiều nghĩa lý thâm sâu: ví dụ Bát Nhã, Ba La Mật, Tam Muội…
2- Những câu “chú”, bài “chú”.
Nghĩa là “chú” chỉ được phép phiên âm, mà không dịch. Kể cả những đoạn “chú” nằm trong kinh văn, thì khi đọc tụng, phần kinh văn có thể tụng lời dịch, còn “chú” thì (bắt buộc) phải tụng theo phiên âm.
Đời sau nhiều người vẫn tìm cách dịch nghĩa các câu “chú” hoặc bài “chú” đó. Song cũng chỉ là dịch để biết, biết (1 phần rất nhỏ) nghĩa lý thế thôi, chứ nếu đọc hoặc tụng theo lời dịch thì dứt khoát không có tác dụng. “Chú” (như sau đây sẽ thấy), là một dạng “ngôn ngữ” đã ra ngoài nghĩa lý thông thường vậy.
Xin “mở ngoặc” một tí: Trong cuộc đời đôi khi cũng gặp những trường hợp tương tự như “chú”. Ví dụ những “mật khẩu” dùng trong quân đội chẳng hạn. Đó là những khẩu lệnh của 1 phía nhằm “quy ước” sẽ thực hiện 1 hành động nào đó mà phía bên kia dẫu có nghe thấy cũng không tài nào hiểu được. Đừng tìm cách “giải nghĩa (đen)” của cái “mật khẩu” ấy làm gì, việc đó không những vô nghĩa, thậm chí có thể dẫn đến… mất mạng như chơi (trường hợp Dương Tu giải thích mật khẩu “kê cân” của Tào Tháo trong truyện Tam Quốc là 1 ví dụ). Trường hợp này và những trường hợp tương tự cũng có thể gọi là 1 dạng “chú”, đó là “chú” của phàm trần (gọi là “phàm chú”).
Vậy “chú” là gì?
“Chú” (từ đây có nghĩa là “thần chú” để phân biệt với “phàm chú”), có thể (tạm) hiểu là những MẬT NGỮ do một bậc giác ngộ hoặc một bậc đắc đạo nào đó đưa ra nhằm “chỉ thị” hoặc “ra lệnh” cho những đồ chúng, quyến thuộc… của vị đó ở những cõi giới khác cõi phàm phải thực hiện một công việc gì đó, một “quyền năng” nào đó đã có “nguyện” (hay giao ước) từ trước.

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

HỆ THỐNG THẦN LINH ẤN ĐỘ GIẢN DỊ HÓA



 Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

 .........................


   Ấn Độ đầy bí ẩn và huyền hoặc có thể làm choáng ngợp bất cứ ai mới tiếp xúc với nền văn minh thâm hậu này. Một trong những vấn đề làm rối nhiều “người ngoài” chưa quen thuộc với văn hóa Ấn nhất chính là hệ thống thần linh Hindu.
       Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa, nếu không muốn nói là sâu đậm hơn. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt.

*****************

THẦN THÁNH CŨNG BIẾT… CƯỜI

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN: THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY BÀI 3
 

THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

Một đặc điểm của người Ấn (hay người thuộc văn minh Ấn) là tính hài hước, hóm hỉnh. Ngay cả các vị thần cũng không sống ngoài không gian hóm hỉnh đầy thông tuệ của người Ấn. Có thể nói các vị thần Hindu rất “người”!

1/ INDRA-THỦ LĨNH CÁC VỊ THẦN-BỊ MANG NGHÌN “CON MẮT”

   Thủ lĩnh các vị thần trong hệ thống Hindu là Indra –Thần Mưa, Hán gọi là Đế Thích. Cần nhớ rõ Indra chỉ là thủ lĩnh của các Deva (bán thần) chỉ cai trị cung Trời (Svargaloka- heaven); thấp hơn God (Thần), và ba vị thần tối cao Trinity là các God cai trị cả vũ trụ: Shiva, Vishnu và Brahman.
  Indra vốn rất ham thích sắc đẹp phụ nữ. Một hôm, cầm lòng không đặng nên Indra đã quyến rũ một phụ nữ xinh đẹp đã có chồng. Chồng của phụ nữ này là một rishi (hành giả Hindu) tên là Bhrigu. Nổi cơn ghen vì bị cắm sừng, vị rishi này bèn rủa Indra rằng: “ Vì ông bị ám ảnh bởi thân thể phụ nữ ông sẽ mang một ngàn “âm hộ” trên khắp cơ thể ông!”

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

CẶP ĐÔI HOÀN HẢO CỦA THẦN THOẠI ẤN ĐỘ



THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 2

LỜI DẪN: Jade là một chuyên gia về Trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence) từ Singapore đến Nepal để nghiên cứu các văn bản cổ đại ở đây. Cô được Lasta, nữ sĩ quan tình báo Nepal dưới vỏ bọc một Chuyên viên Quan hệ công chúng của một tập đoàn lớn, hướng dẫn thăm viếng các di tích cổ của Nepal... 
CHƯƠNG 16

      Lasta chỉ một cái đền nhỏ, “Đấy là Đền Shiva-Parvati.” Cô dắt tay Jade đi đến ngôi đền ấy.
  Trên các vì kèo và tường của ngôi đền này trang trí các bức chạm gỗ gợi tình (Erotic scenes), mô tả các lạc thú của tình yêu. Jade thẹn đỏ mặt khi nhìn thấy các hình ảnh ấy. Cô nghĩ thầm – “Sao họ có thể làm như thế? Trang trí một nơi thờ phượng tôn nghiêm với các cảnh từ Kama Sutra… Không thể tưởng tượng được!”
Đền Shiva-Parvati trong khuôn viên quần thể khu đền Pashupati thiêng liêng nhất của Hindu Nepal

 
Các hình chạm khắc gợi tình (erotic) của đền Shiva-Parvati

Xin bấm vào hình để phóng to lên




   Như hiểu ý Jade, Lasta liền giải thích, “Đừng hiểu nhầm, cô bạn của tôi ơi. Những bức điêu khắc gỗ này không làm ô uế ngôi đền này đâu. Chúng là những kiệt tác tôn vinh những tình nhân vĩ đại của loài người, những vị thần Sáng Tạo và Hủy Diệt của vũ trụ, Shiva và Parvati. Chúng không phải là những hình ảnh “con heo” 3D đâu, mà chính là những biểu tượng của sự hợp nhất các yếu tố Âm và Dương trong vũ trụ theo Mật tông Hindu. Chúng chỉ xuất hiện ở những ngôi đền của, hoặc liên quan đến Shiva và Parvati-Những vị thần của sự sáng tạo và hủy diệt, yêu thương và hy sinh. Những bức chạm khắc này mô tả triết lý của Vòng Sinh-Tử vô cùng tận.”

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA


THẤY VẬY CHỚ HỔNG PHẢI VẬY : BÀI 1

LỜI DẪN: xin trích dịch lại đây vài đoạn trong bản thảo cuốn sách mà mình sắp xuất bản. Sách viết bằng tiếng Anh nên phải dịch lại he he... vì thế giọng văn chắc chắn là không thuần Việt rồi, mong các bạn thông cảm!

Tạm đặt tên cho đoạn này: YẾU TỐ ÂM DƯƠNG TRONG MẬT TÔNG HIMALAYA
 (trong sách đây là chương Ba, không có tên)

CHƯƠNG BA

 
Raj đưa cho Don mảnh giấy mà ông vừa vẽ trên đó, “Cậu có biết cái này là cái gì không?”
Don nhìn lướt qua tờ giấy, trên đó có một hình vẽ ngôi sao sáu cánh
 “Đừng nói với tôi đó là Ngôi sao David mà Dan Brown đã đề cập trong quyển Mật mã Da Vinci nha…” Don cười. Nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm túc của Raj, anh vội vàng nói, “Xin lỗi! Tôi nói đùa…”
  Raj gật đầu, “Không sao. Đấy thực sự là Ngôi sao David, biểu tượng của Do thái giáo và cộng đồng Do thái. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng bởi đạo Hồi, Thiên chúa giáo và các tôn giáo Đông phương khác. Trong đạo Hồi, nó được gọi là Khatem Sulayman-Con dấu của Solomon và Najmat Dawuud-Ngôi sao David. Rất nhiều thánh đường Hồi giáo trang trí ngôi sao sáu cánh này. Anh cũng đã biết rằng, Thiên chúa giáo cũng thờ phụng ngôi sao này.”
   Ông hoàng Nepal ngừng lại, nhấp một ngụm trà xanh, đoạn tiếp tục với một giọng nói chậm rãi, rõ ràng, “Tuy nhiên, ở Lục địa India, trước khi trở thành ngôi sao sáu cánh, biểu tượng này được sắp xếp như là hai tam giác chạm vào nhau như thế này…” Raj vẽ một hình khác:  “”.



  “Biểu tượng này được tìm thấy trên những lá bùa ở Mohenjo-daro trong cuộc khai quật năm 1920. Trên thực tế, anh đã trông thấy nó trong hình thức thực nếu anh đã từng thăm viếng một ngôi đền Shiva.” Raj mỉm cười.
   “Tôi…” Don ngơ ngác nhìn ông già.
“Linga và Jalari” Raj nhắc.
“Jalari? Bác muốn nói cái bầu đựng nước phía trên mỗi linga?”

“Chính xác! Chúng – Linga và Jalari- chính là hình thức nguyên thủy của các tam giác ngược chiều nhau. Trong Mật tông, chúng chuyển hóa thành muôn hình vạn trạng các sự phối hợp giữa hai tam giác ngược chiều nhau. Như vậy, hơn ba ngàn năm trước, nền văn minh của Thung lũng Indus đã tôn thờ hai tam giác ngược chiều nhau.”