Quý bạn đọc thân mến,
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
Trân trọng,
Nguyễn Phú
******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1
Kathmandu Valley (Thung Lũng Kathmandu), thủ đô hiện tại của nước Nepal, vốn là một vương quốc nhỏ trong vùng Himalaya với tên gọi từ thời cổ đại (hơn 500 năm trước Công Nguyên) là Nepal-Mandala. Tên Nepal-Mandala bắt nguồn từ vị trí địa lý của thung lũng này với những dãy núi bao quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).
Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp).
Bahal thì có quy mô lớn với các dãy nhà của tộc họ Shakya bao quanh ba cánh và một cánh dành cho ngôi chùa của họ. Bahil thì quy mô nhỏ hơn, hầu như gói gọn vào một ngôi chùa. Đúng nghĩa, bahil hay bahal là một ngôi nhà sinh hoạt chung của họ Shakya. Họ tụ tập tại đây để cầu nguyện, cúng dường, làm Phật sự hay chỉ đơn giản là sinh hoạt cộng đồng. Bahil và Bahal cũng có tăng ni cư trú để tu tập nhưng họ Sakya không có khái niệm "sư-ni trụ trì". Cho đến ngày nay (thế kỷ 21) họ Shakya vẫn duy trì truyền thống dân chủ cộng hòa của vương quốc Sakya xa xưa ở Kapilavastu. Mỗi cộng đồng có một vị thủ lĩnh (thường là vị cao niên nhất hoặc có uy tín nhất) gọi là Thakali. Thakali sẽ chủ trì các buổi cầu nguyện, cũng như các buổi họp cộng đồng trong đó quyết định sẽ cuối cùng tuân theo nguyên tắc đa số.
Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.
Cách đây hơn mười năm một "tiếng gọi" (the call) từ Himalaya đã vọng đến tác giả vào một buổi sáng tháng Giêng trong hình thức một làn hơi lạnh giá. Sau đó tác giả đã quyết định lên đường một cách trừu tượng mà không hề biết mình sẽ bắt đầu từ đâu và đi đến đâu. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, tác giả đã soạn ra cả một danh sách dài những việc cần làm trong đó có cả việc học những kỹ năng viết lách, quay phim, chụp ảnh... và đã tiêu tốn bốn năm trời dành dụm tiền bạc và học hỏi mọi thứ (kể cả làm phóng viên cho một đài truyền hình để học kỹ năng, nghiệp vụ). Cuối năm 2005, tác giả đặt chân đến Nepal (Kathmandu và Lumbini) một cách bất ngờ không hề có sự chuẩn bị trước trong một chuyến đi độc hành nửa hành hương nửa để cầu siêu cho người mẹ vừa quá cố của mình. Tại đây tác giả đã nhận chân ra "tiếng gọi" vang vọng đến mình 5 năm trước, và chọn xứ sở này làm quê hương thứ hai. "Tiếng gọi" ấy đã tặng cho tác giả một chủ đề nghiên cứu cả đời (life time's subject): The Sakya (Họ Thích-ca).
Sau 7 năm nghiên cứu, tác giả xin đưa lên đây những thu thập ít ỏi bước đầu của mình về một chủ đề có quá ít người tìm hiểu. Mong các bài viết này nhận được sự quan tâm của các bạn!
Trân trọng,
Nguyễn Phú
******************************************************
HỌ SHAKYA Ở KATHMANDU: PHẦN 1
Họ Thích-ca thuộc 18 bahal (tự viện) khắp Kathmandu tập trung cầu nguyện hàng tháng |
Rất nhiều người biết đến chi tiết Kathmandu Valley là một mandala, nhưng không mấy người biết đấy là mandala gì... vì Mật tông Hindu và Mật tông Phật giáo có đến hàng vạn mandala. Câu chuyện về Mandala của Kathmandu xin bàn vào một dịp khác.
Kathmandu Valley chính là nơi cư trú được chính thức ghi nhận của hậu duệ cộng đồng Sakya-Tộc họ đã sản sinh ra một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới: Sakya Buddha (Đức Phật Thích-ca).
Sakya là viết theo tiếng Sanskrit hoặc Pali; Shakya là theo tiếng Newari-ngôn ngữ cổ đại của người bản địa Kathmandu Valley, cũng từ này phiên âm theo tiếng Hán là Thích-ca. Kể từ đây tác giả xin được phép dùng từ Sakya hoặc Shakya để dễ dàng cho bạn đọc khi tra cứu hay tìm kiếm về tộc họ này tại Kathmandu Valley hay từ các nguồn khác với nguồn Hán-Việt (điều này phát xuất từ kinh nghiệm thực tế của tác giả vì ngoài người Việt ra, chẳng một ai biết đến họ Thích-ca! Cũng như dùng các danh từ riêng theo tiếng nước ngoài không phải vì tác giả sính dùng ngoại ngữ).
Nguồn gốc của tộc họ Shakya tại Kathmandu có thể truy nguyên về đến tận thời Sakya Buddha còn tại thế. Khi ấy vua Vidudabha của vương quốc láng giềng hùng mạnh Kosala đã tận diệt họ Sakya tại Kapilavastu (thành Ca-tỳ-la-vệ). Tộc họ Sakya mất nước đã phải lưu vong, tản mác khắp bốn phương trời. Một nhóm Sakya đã theo những con đường mòn của giới thương buôn vượt qua dãy núi Terai tìm đến Kathmandu Valley. Tại đây, một hoàng tử Sakya đã kết hôn với công chúa của vua địa phương tộc họ Kirat (tộc họ này thuộc sắc dân Naga sống trải dài từ Himalaya đến tận Việt Nam; người Việt là một nhánh của Naga di cư từ Himalaya- xin viết về chủ đề này trong một bài khác). Cộng đồng Sakya của Kathmandu Valley bắt đầu định cư và định hình, cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử Kathmandu suốt 2.500 năm nay.
Cộng đồng Sakya lâu đời nhất thuộc về Chabahil. Theo ngôn ngữ Newari, bahil hay bahal tương đương với vihara của Sanskrit. Tuy nhiên, bahil hay bahal không phải một ngôi chùa hay tu viện (pagoda, monastery) dành cho giới tăng-ni như Phật giáo Bắc tông hoặc Nam tông. Nó là một kiến trúc khép kín với 4 dãy nhà xoay mặt vào một cái sân, trung tâm là một stupa (bảo tháp).
Mô hình một Bahil |
Aarta Man Shakya-Thakali hiện tại của toàn bộ Shakya ở Kathmandu Valley |
Theo lịch sử Kathmandu, có 18 bahal thuộc họ Shakya được xem là chánh tông. Vấn đề chánh tông này xuất phát từ hơn 1000 năm trước, khi các vua trị vì Kathmandu Valley lập ra hệ thống Jati (caste theo tiếng Anh). Thực ra nếu dịch Jati /caste thành từ "đẳng cấp" hoặc "giai cấp" trong tiếng Việt thì chưa chính xác. Jati là hệ thống phân biệt nghề nghiệp; những nghề nào xã hội cần hơn, hàm chứa nhiều chất xám hơn thì được đánh giá cao hơn những nghề làm lụng tay chân hay nghề làm những việc thấp hèn. Trong hệ thống ấy, một số người theo Phật giáo của Kathmandu Valley được xếp vào họ Shakya-nghĩa là người theo đạo Shakya Buddha (giống như pháp danh với họ Thích của Phật giáo Bắc tông). Sự kiện này cùng với việc các bahil và bahal được xây dựng ngày một nhiều (trong đó có một số bahil, bahal không thuộc họ Shakya) đã dẫn đến việc họ Shakya thống nhất nhìn nhận trong toàn Kathmandu Valley chỉ có 18 bahal-bahil chánh tông. Và người của 18 bahl-bahil này mới thuộc họ Sakya chánh gốc.